Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Ly Thùy

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12204)
Kinh Ly Thùy


PHẬT NÓI KINH LY THÙY


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0047 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn, Tam tạng Trúc Pháp Hộ.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà ở trong vườn Lộc dã, tại Bà Kỳ Thi, Mục Ma Tỷ Lượng.

Bấy giờ tôn giả Ðại Mục Càn Liên ở tại thôn Thiện Tri Thức, nước Ma kiệt. Lúc ấy tôn giả Ðại Mục Càn Liên sống một mình ở nơi yên tĩnh kinh hành nhưng mắc phải chứng buồn ngủ. Ðức Thế tôn biết tôn giả Ðại Mục Càn Liên sống riêng một mình ở nơi yên tĩnh để kinh hành nhưng lại bị buồn ngủ.

Bấy giờ đức Thế tôn đã biết tôn giả Ðại Mục Càn Liên sống riêng một mình ở nơi yên tĩnh để kinh hành nhưng lại bị buồn ngủ rồi, Ngài liền nhập Tam muội chánh thọ Như Kỳ Tương. Nhờ ý tam muội, nhanh như người lực sĩ co duỗi cánh tay trong khoảnh khắc, đức Thế tôn cũng như vậy, Ngài đang ở trong vườn Lộc Dã Bà Kỳ Thi, Mục Na Tỷ Lượng, bổng nhiên biến mất, đi đến thôn Thiện Tri Thức, nước ma Kiệt, đứng trước mặt tôn giả Ðại Mục Càn Liên. Bấy giờ đức Thế tôn xuất định, bảo tôn giả Ðại Mục Càn Liên:

–Này Mục Càn Liên ! Này Mục Càn Liên ! Thầy đang mắc chứng buồn ngủ ?

–Thưa vâng, bạch Thế tôn.

Ðức Phật dạy:

–Vì niệm nào mà gây buồn ngủ thì chớ thực hành tưởng ấy, chớ phân biệt tưởng ấy, chớ có phân biệt nhiều. Như vậy mới lìa được chứng buồn ngủ. Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên, hãy như giáo pháp đã được nghe, như giáo pháp đã được tụng, hãy nên khai triển rộng rãi mà tụng tập. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy như giáo pháp đã được nghe, như giáo pháp đã được tụng, nên rộng nói cho người khác nghe. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy như pháp đã được đọc tụng, như pháp đã được nghe, thì ý phải suy niệm, phải thực hành. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy lấy nước lạnh rửa mắt và dội ướt hết thân thể. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy dùng hai tay xoa lên mép tai. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy đứng dậy đi ra khỏi giảng đường, hãy nhìn khắp bốn phương và hãy nhìn các vì sao. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy ở khoảng đất trống thong thảkinh hành, hãy thủ hộ các căn, ý nghĩ đến các việc phải làm, sau đó khởi đủ các tưởng. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy trở về, không đi kinh hành nữa, trải Ni sư đàn lên trên giường mà ngồi kiết già. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy trở về giảng đường, gấp tư y Uất đa la tăng trải lên giường, gấp y Tăng già lê làm gối, nằm nghiêng hông bên phải, hai chân chồng lên nhau, hãy khởi minh tưởng (tưởng ánh sáng), đừng để loạn ý, luôn luôn khởi tưởng muốn thức dậy. Này Mục Càn Liên, đừng ham lạc thú giường chõng, đừng ham lạc thú nằm ngủ hông bên phải, đừng ham ngủ nghỉ, đừng ham mùi vị cung kính của thế gian. Vì sao vậy ? Này Mục Càn Liên, vì ta không nói rằng : “Tất cả pháp có thể thân cận (hội hợp)”. Ta cũng không nói rằng : “Tất cả pháp không thể thân cận (hội hiệp)”.

Này Mục Càn Liên, vì sao ta nói : “Tất cả pháp không có thể thân cận ?”. Này Mục Càn Liên, ta nói không thân cận với bạch y. Này Mục Càn Liên, nếu thân cận với bạch y thì phải đàm luận cùng họ mà không tụng tập với họ, nhân đàm luận với họ thì có sự nịnh nọt dối trá, kiêu mạn, nhân có kiêu mạn liền có ganh tị, nhân có ganh tị thì không biết được sự tịch tĩnh. Này Mục Càn Liên, nếu không biết sự tịch tĩnh nên xa lìa tam muội. Này Mục Càn Liên, do đó mà ta nói pháp không thể thân cận.

Này Mục Càn Liên, tại sao ta nói pháp thân cận ? Này Mục Càn Liên, hãy đến chỗ vắng vẻ, lấy nệm cỏ làm giường, im lặng không nói, xa lìa các điều ác, lìa bỏ mọi người, thường phải ngồi tư duy. Này Mục Càn Liên, do đó mà ta nói pháp phải thân cận.

Này Mục Càn Liên, nếu vào thôn xóm để khất thực đừng vì cầu lợi dưỡng, đừng vì cầu được cung kính. Này Mục Càn Liên, hãy chấm dứt cái ý cầu lợi dưỡng, cung kính rồi mới vào thôn xóm khất thực.

Này Mục Càn Liên, khi vào thôn xóm khất thực, hãy đừng khởi ý tưởng vào nhà người khác. Vì sao ? Này Mục Càn Liên, nhà cư sĩ có nhiều việc thế tục. Nếu Tỳ kheo khi vào nhà cư sĩ mà không được họ mời mọc, vị Tỳ kheo kia liền nghĩ như vầy : “Ai đã nói gì với cư sĩ này về ta cho nên cư sĩ mới không nói chuyện với ta”. Vị ấy liền có tâm sân hận, vì có tâm sân hận nên liền có cống cao, vì có cống cao nên tâm không tịch tĩnh. Này Mục Càn Liên, vì ý không tịch tĩnh liền xa lìa tam muội.

Này Mục Càn Liên, nếu lúc thuyết pháp đừng nghĩ chuyện được thua, hãy có ý nghĩ là không thắng. Nếu có ý tranh thắng thì liền có nhiều lời, vì có nhiều lời liền có cống cao, do vì cống cao nên có tật đố, nhân vì tật đố nên không tịch tĩnh. Này Mục Càn Liên, vì không tịch tĩnh nên ta nói xa lìa tam muội.

Này Mục Càn Liên, nếu lúc thuyết pháp phải nói lời có ích, phải nói lời quyết định, chớ đừng nói gì khác. Hãy đàm luận như tiếng rống của con sư tử. Như vậy, Này Mục Càn Liên, hãy nên học như vậy.

Bấy giờ tôn giả Ðại Mục Càn Liên từ chỗ ngồi đứng dậy, đứng qua một bên, đắp y, chắp tay hướng về đức Thế tôn, bạch đức Thế tôn rằng : “Thưa vâng, bạch Thế tôn ! Thế nào là vị Tỳ kheo đến chỗ cứu cánh, cứu cánh vô cấu, cứu cánh hành phạm hạnh ?”.

Ðức Thế tôn bảo : “Này Mục Càn Liên ! Nếu Tỳ kheo bị bệnh đau đớn, hoặc cảm thọ khổ, cảm thọ lạc, hay không khổ không lạc. Vị Tỳ kheo ấy hãy nên quán sự đau đớn ấy là vô thường, hãy quán nó là bại hoại, hãy quán nó là vô nhiễm, hãy quán nó là tận diệt, hãy quán nó là chỉ (xả), hãy quán nó là chỗ dừng nghỉ. Hãy quán sự đau đớn ấy như vậy. Hãy quán sự đau đớn ấy là vô thường trụ, hãy quán nó là bại hoại, hãy quán nó là vô nhiễm, hãy quán nó là tận diệt, hãy quán nó là chỉ, hãy quán nó là trụ vững. Vị ấy liền không đắm trước thế gian này, vì không đắm trước nên không sợ sệt, nên được Hữu dư Niết bàn. Sự sanh đã hết, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, biết rõ về danh sắc. Này Mục Càn Liên, đó là Tỳ kheo đạt đến cứu cánh, cứu cánh vô cấu, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh hành phạm hạnh.

Ðức Phật nói như vậy, tôn giả Ðại Mục Càn Liên nghe đức Phật dạy như vậy hoan hỷ vui mừng

PHẬT NÓI KINH LY THÙY

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12825)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12747)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11801)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11781)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12398)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12448)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19893)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12027)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12051)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12725)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15128)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16193)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12946)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12295)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11972)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11975)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13217)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16562)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13277)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12565)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11905)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19917)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11210)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11319)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10455)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11150)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11016)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10072)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11790)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11687)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12007)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11147)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11391)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12108)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12598)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10819)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18041)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11758)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9992)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11280)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13215)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16626)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11912)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10955)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11893)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28862)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12415)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53160)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35557)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16117)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12242)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12376)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11429)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17245)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15030)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14656)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13917)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11774)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15105)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant