Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Pháp Đúng, Pháp Sai

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12413)
Kinh Pháp Đúng, Pháp Sai


PHẬT NÓI KINH PHÁP ÐÚNG, PHÁP SAI


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0048 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Hậu Hán, Sa môn An Thế Cao

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy: Một thời Phật ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn Ông Cấp cô độc, nước Xá vệ.

Bấy giờ đức Phật bảo các Tỳ kheo. Các Tỳ kheo thưa: “Dạ vâng”. Các Tỳ kheo theo đức Phật để nghe dạy.

Ðức Phật dạy: “Các Tỳ kheo hãy lắng nghe ta nói. Có pháp hiền giả, cũng có pháp phi hiền giả. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe cho kỹ, biết cho rõ, suy nghĩ điều này thật kỹ.

Các Tỳ kheo thưa: “Dạ vâng!”. Theo Phật để thọ giáo. Ðức Phật nói rằng: “Này Tỳ kheo! Những gì là pháp phi hiền giả ? Nếu Tỳ kheo thuộc dòng dõi quý tộc, thích đạo, muốn học đạo, nếu có các Tỳ kheo khác đồng học nhưng không phải dòng dõi quý tộcTỳ kheo dòng dõi quý tộc tự kiêu đối với bản thân mình, khinh chê người khác. Ðó là pháp phi hiền giả.

Những gì là pháp hiền giả ? Vị hiền giả nên học thấy chính ta không phải dòng họ tôn quý mà có khả năng đoạn tham dục, đoạn trừ sân hận, đoạn trừ ngu si. Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo không phải nhà thuộc dòng họ tôn quý (thuyết pháp), ta chỉ cần nương vào phương tiện để thọ pháp, theo pháp mà nói, theo điều cốt tủy của chánh phápthực hành, tùy thuận pháp mà thực hành. Nhờ theo vị danh đức ấy để nghe pháp như pháp mà hành tùy thuận chơn thật pháp, không tự khen mình, cũng không khinh người. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo nhan sắc hết sức đoan chánh, các Tỳ kheo khác không bằng, do mình đoan chánh cho nên tự khen mình chê người. Ðó không phải là pháp hiền giả. Bậc hiền giả thì không như vậy. Bậc hiền giả không tự chấp vào sắc đoan chánh của mình mà có thể đoạn trừ được tham, dâm, có thể đoạn được sân hận, có thể đoạn được ngu si.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo tuy không đoan chánh (thuyết pháp), ta chỉ theo pháp ấy hoặc nhiều hay ít, thọ trì, thực hành, liền được ngợi khen, có tiếng. Vậy ta hãy thọ pháp ấy một cách chắc chắn, tùy theo pháp mà hành, không tự khen mình, cũng không chê người. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo khéo nói những lời hay đẹp, còn các Tỳ kheo khác thì không nói được như vậy. Vị ấy nhân khéo nói được những lời hay đẹp nên tự khen mình chê người. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Vị hiền giả học rằng chính ta không phải nhờ lời nói hay đẹp, cũng không phải nhờ biết nói những lời hay đẹp mà có thể đoạn trừ được tham dục, có thể đoạn trừ được sân hận, có thể đoạn trừ được ngu si.

Hoặc có vị Tỳ kheolời nói không hay đẹp, lại cũng không khéo nói, nhưng chỉ như pháp thọ giáo, hoặc tùy hành nhiều hay ít, nhờ việc làm đó được cung kính, làm như vậy được đa văn. Vị ấy với pháp này, nhờ thọ trì pháp, thực hành chắc thật, không tự khen mình chê người. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ nghe có một vị Tỳ kheo lớn tuổi, có nhiều tri thức, là bạn hữu giàu có, còn các Tỳ kheo khác thì không bằng. Vị ấy liền theo vị Tỳ kheo lớn tuổi có nhiều tri thức ấy, rồi tự khen mình, tự kiêu ngạo và khinh chê kẻ khác. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Bậc hiền giả chỉ suy nghĩ, học hỏi rằng “Chính ta không hẳn nhờ theo vị lớn tuổi, cũng không phải nhờ có nhiều tri thức, cũng không nhờ theo người có nhiều phước đức mà có thể đoạn trừ được tham dục, có thể đoạn trừ được sân hận, có thể đoạn trừ được ngu si.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo còn nhỏ, cũng không có nhiều tri thức, phước đức cũng ít ỏi, nhưng thọ pháp, muốn tùy pháp hành, hoặc nhiều hay ít, nhờ đó được có tiếng tăm. Vị ấy theo pháp, tùy pháp chơn thật nhưng không tự khen mình, không tự kiêu mạn, không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo biết nghe kinh, có thể thuyết kinh, biết luật, biết rõ và thâm nhập kinh, còn các Tỳ kheo khác thì không được như vậy. Vị ấy nhờ thâm nhập, thông suốt kinh nên tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó chẳng phải là pháp hiền giả. Bậc hiền giả thì không như vậy. Hiền giả nên học như vầy: “Chính ta không phải nhờ thâm nhập, cũng không phải nhờ thông suốt kinh điển mà có thể đoạn trừ được tham dục, có thể đoạn trừ được sân hận, có thể đoạn trừ được ngu si”.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo không có thâm nhập, cũng không có thông suốt kinh điển, chỉ thọ pháp, tùy pháp, chánh cần, tùy pháp hành, nên nhờ đó mà được cung kính, nhờ đó mà được tiếng tăm. Ðó là nhờ trì pháp, tùy pháp, thực hành điều chơn thật, cho nên vị ấy không tự khen mình, không tự kiêu ngạo, cũng không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo cầu khất thực, không nhờ các bạn hữu để cầu khất thực, không quá bảy nhà, ngồi một chỗ, ngày ăn một bữa, sau đó ai cúng cũng không nhận. Còn các Tỳ kheo khác thì không được như vậy. Do ngày ăn một bữa, sau đó có cúng cũng không nhận, rồi tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Hiền giả cần phải học: “Ta không hẳn theo hạnh ngày ăn một bữa, sau đó có cúng cũng không nhận mà có thể đoạn trừ được tham dục, đoạn trừ được sân hận, đoạn trừ được ngu si.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo không theo hạnh ngày ăn một bữa, sau đó có cúng không nhận. Vị ấy chỉ thọ pháp, tùy pháp chơn chánh tiếp nhận tùy pháp, nhờ đó được cung kính, nhờ đó được tiếng tăm, pháp này tùy pháp chơn thật, nhưng vẫn không tự khen mình, không tự kiêu ngạo, cũng không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc bấy giờ có vị Tỳ kheo dùng ba y ở nơi gò mả, còn các Tỳ kheo khác thì không được như vậy. Nhờ danh tiếng ấy nên tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó chẳng phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Hiền giả chỉ học: " Không hẳn ta nhờ dùng ba y này mà có thể đoạn trừ được tham dục, có thể đoạn trừ được sân hận, có thể đoạn trừ được ngu si”.

Hoặc có Tỳ kheo không dùng ba y này, nhưng vị ấy chỉ thọ pháp, tùy pháp, chơn chánh tiếp thọ tùy pháp, nhờ đó liền được cung kính, được tiếng tăm. Nhờ pháp này, tùy thuận pháp chơn thật, nhưng vị ấy không tự khen mình, không tự kiêu mạn, cũng không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc có Tỳ kheo ở nơi đất trống hay ở dưới gốc cây, hoặc ở đầm vắng, giữa gò mã, để ngọa cụ nơi đó, còn các Tỳ kheo khác thì không như vậy. Do đó vị ấy tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Hiền giả chỉ học: " Không hẳn ta nhờ để ngọa cụ ở nơi đất trống dưới gốc cây, đầm vắng, giữa gò mã mà có thể đoạn trừ được tham dục, có thể đoạn trừ được sân hận, có thể đoạn trừ được ngu si”.

Hoặc có Tỳ kheo không có những điều nói trên, nhưng vị ấy chỉ thọ pháp, tùy pháp, chơn chánh tiếp thọ tùy pháp, nhờ đó liền được cung kính, được tiếng tăm. Nhờ pháp này, tùy pháp chơn thật, nhưng vị ấy không tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc có Tỳ kheo đã được đệ nhất thiền, còn các Tỳ kheo khác thì không được như vậy. Vì được đệ nhất thiền nên vị ấy tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Hiền giả chỉ học: " Ðệ nhất thiền, đức Phật dạy, phải tự mình biết điều ấy, thọ trì pháp chơn thật ấy, không tự khen mình, không tự kiêu mạn, không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc có Tỳ kheo được đệ nhị thiền, hoặc được đệ tam thiền, hoặc được đệ tứ thiền, như đã nói về đệ nhất thiền. Ðó là pháp hiền giả.

Hoặc có Tỳ kheo hiểu Không hành ý, hoặc có lúc hiểu Thức hành ý, hoặc có lúc hiểu Phi thường hành ý, hoặc có lúc hiểu Vô hữu tư tưởng hành ý, hữu tư tưởng hành ý. Còn các Tỳ kheo khác thì không được như vậy. Nhờ đó được tư tưởng vô hữu tư tưởng hành nên tự khen mình, tự kiêu mạn, khinh chê kẻ khác. Ðó không phải là pháp hiền giả. Hiền giả thì không như vậy. Hiền giả chỉ học: " Vô hữu tư tưởng hành, cũng như hữu tư tưởng hành, đức Phật dạy ta có cái này, thọ pháp, tùy pháp chơn thật nên không tự khen mình, không tự kiêu mạn, không khinh chê kẻ khác. Ðó là pháp hiền giả.

Ðức Phật bảo: “Này các Tỳ kheo! Ta đã nói về pháp hiền giả, cũng nói pháp không phải hiền giả. Các Tỳ kheo hãy nên tự tư duy. Ðối với pháp không phải hiền giả cũng nên tư duy. Hãy thực hành pháp hiền giả, xả bỏ pháp không phải hiền giả. Hãy thọ hiền giả, tùy pháp, Tỳ kheo nên học như vậy.

Ðức Phật dạy như vậy. Chư Tỳ kheo tiếp thọ và chí tâm hành trì.

 

PHẬT NÓI KINH PHÁP ÐÚNG, PHÁP SAI

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30496)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 27728)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 30040)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 23044)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 30685)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31317)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37196)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32337)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27166)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 30117)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23144)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22348)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 30948)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41551)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 24983)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23705)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25346)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 58774)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 20907)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28947)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 28636)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 23966)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 24861)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 61865)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 22130)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
(Xem: 23988)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41240)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 33228)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 25799)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 31351)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38608)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21463)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44296)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 42246)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45800)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32141)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23985)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 33944)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27702)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 22091)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21458)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19534)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19491)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19849)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19280)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 27562)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27951)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26746)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 22700)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 30369)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 44260)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35556)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 20717)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24793)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37963)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 21862)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 32632)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26264)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28972)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43186)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant