Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh A Nậu Phong

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11204)
Kinh A Nậu Phong


PHẬT NÓI KINH A NẬU PHONG


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0058 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Ðông tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Ðàm Vô Lan

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà ở tại Bạt Kỳ thành, tên gọi là A Nậu Phát. Bấy giờ đức Thế Tôn, sau giờ ngọ, từ thiền tọa đứng dậy, bảo tôn giả A Nan rằng:

–Này A Nan, chúng ta hãy cùng nhau đến bờ ao A Di Ðà Bà để tắm rửa.

Tôn giả A Nan thưa:

–Dạ vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả A Nan vâng theo lời dạy của đức Thế Tôn. Khi ấy đức Thế Tôn cùng tôn giả A Nan và các Tỳ kheo tùy tùng đi đến bờ ao A Di Ðà Bà. Ðến xong, ở trên bờ ao A Di Ðà Bà cởi y phục để trên bờ ao, rồi xuống ao A Di Ðà Bà tắm, tắm xong lên bờ lau mình (và mặc y phục vào).

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo tôn giả A Nan:

–Này A Nan, người có phóng dật như Ðề Bà Ðạt Ðâu, khi bỏ chỗ này phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu vớt được. Này A Nan, thầy có nghe các Tỳ kheo nói lời này rằng: “Ta đã ghi nhận nhất quyết rằng Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu vớt được” không?

Tôn giả A Nan đáp:

–Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Vì sao? Vì con có nghe điều này. Bạch Thế Tôn, con có nghe một vị Tỳ kheo nói với con rằng: “Thế nào, này hiền giả A Nan, đức Thế Tôn biết rõ những ý nghĩ, những hành động trong tâm của Ðề Bà Ðạt Ðâu chăng? Hay Ngài dùng các phương tiện khác để biết nên Ngài mới ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu thoát”.

Ðức Thế Tôn dạy:

–Này A Nan, Tỳ kheo ấy hoặc là thượng tôn, hoặc là niên thiếu, hay còn nhỏ, là kẻ thiếu trí tuệ. Vì sao? Vì Như lai đã ghi nhận nhất quyết, nhưng vị ấy vẫn còn nghi hoặc. Này A Nan, ta không thấy có thiên, ma, phạm, Sa môn, Bà la môn, chúng thiênloài ngườithế gian này mà ta đã ghi nhận nhất quyết như vậy là phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu như Ðề Bà Ðạt Ðâu. Vì sao? Này A Nan, ta ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu chắc chắn phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu thoát. Này A Nan, ta không thấy Ðề Bà Ðạt Ðâu có một chút pháp bạch tịnh, cho dù nhỏ như một sợi lông. Nếu ta thấy y có một chút pháp bạch tịnh thì ta đã không ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu chắc chắn phải đọa vào ác thú Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu thoát. Cho nên này A Nan, vì ta không thấy Ðề Bà Ðạt Ðâu có một chút pháp bạch tịnh, cho dù nhỏ như một sợi lông. Nếu ta thấy y có một chút pháp bạch tịnh nên ta mới ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu chắc chắn phải đọa vào ác xứ, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu thoát.

–Này A Nan, ví như cách thôn nọ không xa có một hầm phẩn lớn đầy phẩn hôi thối, hoặc có một người bị lọt vào trong đó, chìm xuống tận đáy. Hoặc có người trông thấy, suy nghĩ như vầy: “Ta có lòng thương xót muốn kẻ ấy được lợi ích, muốn cứu vớt kẻ ấy để kẻ ấy được an ổn”. Người ấy đứng trên hầm phẩn lớn đấy quán sát chung quanh để xem người ấy có chỗ nào không bị dính phẩn, dù nhỏ như một sợi lông để nắm kẻ ấy kéo lên. Người ấy đứng trên hầm phẩn lớn nhìn khắp thân thể của người kia nhưng không thấy có một chỗ nào, dù nhỏ như một sợi lông sợi tóc mà không bị dính phân để có thể nắm kéo lên được. Cũng vậy, này A Nan, ta không thấy Ðề Bà Ðạt Ðâu có một chút pháp bạch tịnh bằng một sợi lông, sợi tóc. Nếu y có một chút pháp bạch tịnh thì ta không ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào chỗ ác Nê Lê, sanh trong địa ngục suốt một kiếp, khó có thể cứu thoát. Cho nên này A Nan, ta không thấy Ðề Bà Ðạt Ðâu có một chút pháp bạch tịnh, dù bằng một sợi lông do đó ta ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào chỗ ác, sanh trong địa ngục suốt cả một kiếp, khó có thể cứu thoát.

Bấy giờ tôn giả A Nan rơi nước mắt khóc lóc, chắp tay hướng về đức Thế Tôn thưa rằng:

–Kính bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu. Nay Thế Tôn đã ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào chỗ ác Nê Lê, sanh trong địa ngục, ở đấy trọn kiếp, khó có thể cứu thoát.

Ðức Thế Tôn dạy:

–Ðúng vậy, A Nan. Ðúng vậy, A Nan. Ta ghi nhận nhất quyết rằng: Ðề Bà Ðạt Ðâu phải đọa vào chỗ ác Nê Lê, sanh trong địa ngục, ở đấy trọn kiếp, khó có thể cứu thoát. Này A Nan, hãy nghe đức Như Lai Phân biệt Ðại nhơn căn tướng, chắc chắn sẽ có niềm tin, ý sanh hoan hỷ tối thượng đối với Như Lai.

Khi ấy tôn giả A Nan chắp tay hướng về đức Thế Tôn thưa rằng:

–Bạch đức Thế Tôn, nay quả là đúng lúc. Cúi mong đức Thế Tôn giảng cho các Tỳ kheo nghe về Phân biệt Ðại nhơn căn tướng. Khi nghe đức Thế Tôn giảng xong, các Tỳ kheo sẽ khéo thọ trì.

Ðức Thế Tôn dạy:

–Này A Nan, hãy lắng nghe, hãy khéo suy nghĩ, ta sẽ nói cho.

Tôn giả A Nan thưa:

–Dạ vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả A Nan vâng theo lời Phật dạy, đức Phật bảo:

–Này A Nan, Như Lai biết ý nghĩ của người khác, người ấy cùng tương ưng với thiện pháp, tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết tâm ý của người đó diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người ấy đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện rồi, nhưng thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt. Từ thiện căn đó, lại sẽ phát sanh thiện pháp. Như vậy, người này sẽ đạt được pháp ý thanh tịnh. Này A Nan, giống như sáng sớm, mặt trời vừa xuất hiện, bóng tối liền diệt hết, ánh sáng liền phát sanh. Này A Nan, ý thầy thế nào? Mặt trời lên dần cho đến giờ ăn trưa, phải chăng bóng tối đã diệt, thì có ánh sáng hiện không?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết những điều suy niệm trong tâm người khác, người này cùng tương ưng với pháp thiện, cũng tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết những điều suy nghĩ trong tâm người ấy, biết người này diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện, nhưng thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt. Từ thiện căn đó sẽ lại phát sanh pháp thiện. Như vậy, người này sẽ đạt được pháp ý thanh tịnh. Này A Nan, ví như hạt lúa giống không hư, không vỡ, không mục, không nứt, không bị gió làm thương tổn, được cất giấu an ổn trong vựa lúa. Người cư sĩ làm ruộng kia sửa sang, cày bừa thửa ruộng ngay thẳng xong, gieo hạt lúa vào và mưa xuống đúng lúc, thì này A Nan, ý thầy thế nào? Người ấy có được thu hái nhiều hạt lúa chăng?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, được nhiều hạt.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết những điều suy nghĩ trong tâm ý người khác, biết người này cùng tương ưng với pháp thiện, tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết những điều suy nghĩ trong tâm người ấy, biết họ diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người ấy đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện, rồi có những thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt. Từ thiện căn đó thiện pháp sẽ lại phát sanh. Như vậy, người này sẽ đạt được pháp ý thanh tịnh. Này A Nan, đó gọi là Như Lai nói về Ðại nhân căn tướng vậy. Cũng vậy, Như Lai biết rõ chỗ quay về của các pháp.

Lại nữa, này A Nan, Như Lai biết những điều suy nghĩ trong tâm ý người khác, biết người này cùng tương ưng với pháp thiện, tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết những điều suy nghĩ trong tâm người này, biết người này diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện rồi, thiện căn có từ trước không đoạn tuyệt, nhưng tất cả thiện căn ấy rồi sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người này có pháp đoạn tuyệt. Này A Nan, giống như từ lúc xế chiều mặt trời lặn ánh sáng diệt hết, bóng tối sanh ra. Này A Nan, ý thầy thế nào? Sau khi mặt trời lặn, không phải giờ ăn, ánh sáng đã tắt hết thì bóng tối sanh ra chăng?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết những suy nghĩ trong tâm của người khác, biết người này cùng tương ưng với pháp thiện, tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết những ý nghĩ trong tâm người ấy, người này diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người này đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện rồi, đã có thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt, rồi tất cả sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người này đi đến pháp đoạn tuyệt. Này A Nan, giống như hạt lúa giống không hư, không vỡ, không mục, không nứt, không bị gió làm thương tổn, để an ổn trong vựa lúa. Nếu người cư sĩ kia sửa sang, cày bừa ruộng ngay thẳng, tốt rồi gieo hạt vào, nhưng mưa không phải thời, thì này A Nan, ý thầy thế nào? Có được nhiều hạt lúa không?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, không thể được nhiều hạt.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết ý nghĩ trong tâm của người khác, biết người này tương ưng với pháp thiện, tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết tâm niệm của người ấy diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện. Người đó đã diệt pháp thiện, sanh pháp bất thiện rồi, nhưng thiện căn có trước đây vẫn không đoạn tuyệt, thì nay sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người này có pháp đoạn tuyệt. Này A Nan, như vậy, là Như Lai nói về Ðại nhân căn tướng. Như vậy là pháp tướng của Như Lai, pháp tướng sanh ra Ngài đều biết rõ.

Lại nữa, này A Nan, Như Lai biết ý niệm của người khác, ta không thấy người này có một chút pháp bạch tịnh dù nhỏ như sợi lông sợi tóc. Người này một mực chỉ toàn là pháp ác bất thiện trói buộc, trở lại bị quả báo phiền nhiệt khổ sở, phải bị sanh, già, bệnh, chết. Như vậy, người này khi thân hoại mạng chung phải sanh trong địa ngục. Này A Nan, giống như hạt lúa giống bị hư, vỡ, mục nát, bị gió làm thương tổn, không được cất giấu cẩn thận. Nếu người cư sĩ làm ruộng ấy không ra sức cày đất, không làm cho đất thuần thục, bằng phẳng rồi gieo hạt giống xuống và mưa không phải thời, thì này A Nan, ý thầy thế nào? Người ấy có được nhiều lúa chăng?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, dạ không.

Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết ý niệm của người khác. Ta không thấy người này có một chút thiện pháp dù nhỏ như sợi lông sợi tóc. Người này một mực chỉ toàn là pháp ác bất thiện trói buộc, nên trở lại bị quả báo nóng bức khổ não, phải chịu sự sanh, già, bệnh, chết. Như vậy, người ấy sau khi thân hoại mạng chung phải sanh trong địa ngục. Như vậy, này A Nan, Như Lai nói về Ðại nhân căn tướng như vậy. Như Lai đối với các pháp hỗ tương sinh ra Ngài đều biết rõ.

Khi ấy tôn giả A Nan chắp tay hướng Phật thưa rằng:

–Bạch Thế Tôn, Ngài đã thuyết giảng về ba hạng người như vậy. Như Lai có thể thuyết giảng về ba hạng người khác nữa được chăng?

Ðức Phật dạy:

–Này A Nan, ta có thể nói. Này A Nan, Như Lai hoặc biết ý niệm của người khác, biết người này cùng tương ưng với pháp thiện, cũng tương ưng với pháp bất thiện. Sau đó Như Lai biết tâm ý của người này, người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện. Người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện rồi, nhưng bất thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt. Từ pháp thiện đó lại sanh pháp thiện (?). Như vậy, người này đối với pháp bất thiện sẽ đoạn tuyệt. Này A Nan, ví như có lửa cháy, ngọn lửa cứ tự nhiên cháy, hoặc có người đẩy cỏ khô lên rồi chất củi khô lên. Này A Nan, ý thầy thế nào? Ngọn lửa càng bốc cháy mạnh lên chăng?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết tâm ý của người khác, người này cùng tương ưng với pháp bất thiện, tương ưng với pháp thiện. Sau đó Như Lai biết tâm ý của người này, người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện. Người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện rồi, nhưng bất thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt. Từ pháp bất thiện đó lại sanh pháp bất thiện. Như vậy, người này đi đến pháp hủy diệt. Này A Nan, như vậy gọi là Như Lai nói về Ðại nhân căn tướng. Cũng vậy, Như Lai biết các pháp hỗ tương sanh ra Ngài đều biết rõ.

Lại nữa, này A Nan, Như Lai biết tâm ý của người khác, người này cùng tương ưng với pháp bất thiện, cũng tương ưng với pháp thiện. Sau đó Như Lai biết tâm ý của người này, người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện. Người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện rồi, nhưng bất thiện căn còn sót lại chưa đoạn tuyệt, tất cả rồi sẽ đoạn tuyệt. Như vậy người này đi đến pháp ý thanh tịnh rốt ráo. Này A Nan, ví như đốt lửa, ngọn lửa tự nhiên bốc lên, có người đem lửa đang cháy để trên đất khô, hoặc để trên đá. Này A Nan, ý thầy thế nào? Ngọn lửa có bốc cháy mạnh lên chăng?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, không thể bốc cháy mạnh được.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết ý niệm của người khác, người này cùng tương ưng với pháp bất thiện, cũng tương ưng với pháp thiện. Sau đó Như Lai biết tâm niệm của người này, người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện. Người này đã diệt pháp bất thiện, sanh pháp thiện rồi, bất thiện căn còn sót lại từ trước vẫn chưa đoạn tuyệt, nhưng rồi tất cả sẽ đoạn tuyệt. Như vậy, người đó đạt được pháp thanh tịnh hoàn toàn. Này A Nan, như vậy là Như Lai đã nói về Ðại nhân căn tướng. Cũng vậy, Như Lai biết các pháp hỗ tương sanh ra Ngài đều biết rõ.

Lại nữa, này A Nan, Như Lai biết tâm ý suy nghĩ của người khác. Ta không thấy người ấy có hắc nghiệp dù nhỏ như sợi lông, sợi tóc. Người ấy hoàn toàn có đầy đủ pháp thiện, hạnh thiện và quả báo thiện, thân kẻ ấy tương ưng với chỗ thiện. Như vậy, người ấy ngay trong đời này chắc chắn chứng Niết bàn. Này A Nan, ví như lửa đã tắt, mát lạnh, không còn nóng nữa, hoặc có người lấy cỏ khô bỏ vào trong ấy, này A Nan, ý thầy thế nào? Nó có thể bốc cháy không?

Tôn giả A Nan thưa:

–Bạch Thế Tôn, không thể được.

–Cũng vậy, này A Nan, Như Lai biết ý niệm của người khác. Ta không thấy người này có hắc nghiệp dù nhỏ như sợi lông, sợi tóc. Người ấy hoàn toàn có đầy đủ pháp thiện, hạnh thiện và quả báo thiện, thân kẻ ấy tương ưng với chỗ thiện. Như vậy, người ấy ngay trong đời này chứng Bát Niết bàn. Này A Nan, như vậy là Như Lai nói về Ðại nhân căn tướng. Cũng vậy, Như Lai đối với các pháp hỗ tương sanh ra Ngài đều biết rõ.

Này A Nan, ba hạng người nói trên kia, hạng thứ nhất đạt được pháp thanh tịnh, hạng thứ hai có pháp hoại diệt, hạng thứ ba khi thân hoại mạng chung chắc chắn đọa vào chỗ ác, sanh trong địa ngục. Ba hạng người ta nói sau đó, hạng người thứ nhất có pháp hủy diệt, hạng thứ hai có pháp thanh tịnh, hạng thứ ba ngay trong đời này chứng đắc Bát Niết bàn.

Này A Nan, ta đã nói về Ðại nhân căn tướng. Như đấng Thế Tôn thương yêu đệ tử, muốn được lợi ích, ta đã nói cho thầy nghe. Nay thầy phải ở chỗ vắng vẻ, ngồi dưới gốc câythiền định, tư duy chớ có phóng dật, đừng để về sau phải hối hận. Ðó là lời giáo huấn của ta. Ðó là lời khuyên bảo của ta.

Ðức Phật thuyết pháp như vậy, các Tỳ kheo sau khi nghe đức Thế Tôn dạy, hoan hỷ phụng hành.

 

PHẬT NÓI KINH A NẬU PHÁT

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12849)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12768)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11813)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11807)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12423)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12468)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19925)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12059)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12088)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16977)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12754)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15171)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16225)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12966)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12323)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11995)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 12004)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13238)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16594)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13311)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12601)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11918)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19952)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11257)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11354)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10489)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11167)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11034)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10112)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11820)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11710)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12035)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11189)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11427)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12134)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12634)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10843)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18083)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11801)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10025)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11308)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13261)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16664)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11947)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 11003)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11935)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28893)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12440)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53213)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35589)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16158)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12260)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12409)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11484)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17294)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15079)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14690)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13934)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11795)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15141)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant