Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Cù Đàm Di Ký Quả

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11532)
Kinh Cù Đàm Di Ký Quả


PHẬT NÓI KINH CÙ ÐÀM DI KÝ QUẢ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0060 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Ðời Lưu Tống, Tam tạng Pháp sư Huệ Giản.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy một thời Bà Già Bà ở trong vườn Ni câu Lư, thành Ca Duy La Vệ, Thích Cơ Sấu, cùng chúng đại Tỳ kheo thọ tuế (an cư). Bấy giờ Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, xong đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi bạch Thế tôn rằng: “Bạch đức Thế tôn, nữ nhân có thể đắc quả sa môn thứ tư được chăng? Nữ nhơn có thể ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo được chăng?”.

Ðức Thế tôn dạy: “Thôi đi này Cù Ðàm Di, không nên nói như vậy. Nữ nhân không nên ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình xuất gia học đạo được, cạo tóc, khoác áo ca sa, nguyện suốt đời thực hành phạm hạnh thanh tịnh”. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di bị đức Thế tôn ngăn cản, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, nhiễu quanh đức Thế tôn rồi trở về.

Bấy giờ các Tỳ kheo làm y của đức Thế tôn. Ðức Thế tôn không bao lâu thì đến Thích Cơ Sấu để thọ tuế (an cư). Sau khi trải qua ba tháng thọ tuế xong và đã làm y rồi. Sau khi y đã xong, ngài khoác y, ôm bát du hành trong nhơn gian.

Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di nghe các Tỳ kheo đã làm y của đức Thế tôn xong, đức Thế tôn không bao lâu nữa sẽ đến Thích Cơ Sấu để thọ tuế. Sau khi trải qua ba tháng thọ tuế xong, làm y rồi, ngài khoác y, ôm bát du hành nhân gian. Sau khi nghe tin Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di lại đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã đứng qua một bên rồi, bạch đức Thế tôn: “Bạch Thế tôn, có thể nào làm cho nữ nhân đắc quả sa môn thứ tư chăng? Do đó nữ nhân có thể ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, từ bỏ gia đìnhhọc đạo được chăng?”

Ðức Thế tôn lại nói: “Thôi đi này Cù Ðàm Di. Ðừng nói như vậy. Nữ nhân không nên ở trong pháp luật này vui thích xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo, cạo tóc, mặc áo ca sa, nguyện suốt đời tu hành phạm hạnh thanh tịnh”. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã bị đức Thế tôn ngăn cản lần thứ hai, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn nhiễu quanh rồi ra về. Bấy giờ đức Thế tôn ở Thích Cơ Sấu đã thọ tuế an cư sau ba tháng xong, đã làm y rồi, ngài khoác y, ôm bát và đi du hành nhân gian. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di ... nhân gian.

Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã nghe tin như vậy rồi liền cùng các lão nữ nhân đi theo sau đức Thế tôn. Bấy giờ đức Thế tôn thứ lớp du hành đến Na Bà Ðề, ngài dừng chân ở Na Bà Ðề, Kỳ Ni Xá. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân Thế tôn, rồi đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi, bạch Thế tôn: “Bạch Thế tôn, nữ nhân có cách nào để đắc quả sa môn thứ tư chăng? Do đó nữ nhân có thể ở trong pháp luật này tin vui, xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo được chăng?”.

Ðức Thế tôn nói lại lần thứ ba: “Thôi đi này Cù Ðàm Di. Không thể như vậy. Nữ nhân không được ở trong pháp luật này xuất gia, từ bỏ gia đìnhhọc đạo, cạo tóc, mặc áo ca sa, nguyện suốt đời hành phạm hạnh thanh tịnh”. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di bị Thế tôn ngăn cản lần thứ ba, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn nhiễu quanh rồi đi ra.

Lúc ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di chân tay lấm lem, thân thể dính đầy bụi bậm, vô cùng mệt mõi, đứng ngoài cửa buồn rầu khóc lóc. Tôn giả A nan từ xa trông thấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di chân tay lấm lem, thân thể dính đầy bụi bậm, vô cùng mệt mõi, đứng ngoài cửa mà khóc, thấy xong tôn giả hỏi: “Cù Ðàm Di? Vì lý do gì mà tay chân lấm lem, thân thể dính đầy bụi bậm, vô cùng mệt mõi, đứng ngoài cửa buồn rầu khóc lóc như vậy?”. Cù Ðàm Di thưa: “Thưa tôn giả A nan, nữ nhân không được ở trong pháp luật này, không được tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo”. Tôn giả A nan nói: “Này Cù Ðàm Di, hãy đứng dậy, để tôi đi đến chỗ đức Thế tôn và thưa việc này cho”.

Bấy giờ tôn giả A nan đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân Thế tôn xong đứng qua một bên. Tôn giả A nan đứng qua một bên rồi bạch rằng: “Bạch Thế tôn, nữ nhân có thể đắc quả sa môn thứ tư chăng? Do đó nữ nhân có thể ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, bỏ nhà học đạo được chăng?”. Ðức Thế tôn dạy: “Này A nan, thôi đi đừng nói nữa. Nữ nhân không được ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, từ bỏ gia đìnhhọc đạo. Này A nan, nếu nữ nhân được ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo thì phạm hạnh này sẽ không được tồn tại lâu dài. Này A nan, ví như gia đình có nhiều người nữ, ít người nam thì gia đình này có hưng thịnh lên không?”. - Bạch Thế tôn, không thể.

-Cũng vậy, này A nan, nếu cho nữ nhân được xuất gia ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo thì phạm hạnh sẽ không được tồn tại lâu dài. Này A nan, giống như trong ruộng lúa dé, lúa tẻ đang lên phơi phới, nữa chừng thì bị mưa đá làm cho tổn hại. Ðám ruộng tốt ấy nhân vì mưa đá nên bị bại hoại. Cũng vậy này A nan, nếu có nữ nhân ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo thì phạm hạnh này sẽ không được tồn tại lâu dài.

Tôn giả A nan lại bạch: “Bạch Thế tôn, Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã đem lại lợi ích cho Thế tôn. Sau khi thân mẫu Thế tôn mạng chung thì Cù Ðàm Di đã nuôi lớn Thế tôn bằng dòng sữa của bà”.

Ðức Thế tôn dạy: “Ðúng vậy, này A nan, Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã đem lại cho ta nhiều lợi ích. Khi thân mẫu của ta mạng chung thì bà đã dùng sữa của bà để nuôi lớn ta. Nhưng này A nan, ta cũng đã đem lại nhiều lợi ích cho Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di. Nhờ ta mà bà quy y ta (Phật), quy y phápquy y Tỳ kheo tăng, không nghi ngờ đối với Phật pháp, không nghi ngờ đối với chúng tăng, không nghi ngờ đối với khổ, tập, tận, đạo, đầy đủ tín tâm, giới cấm, bác văn, bố thí, đầy đủ trí tuệ, đoạn trừ nghiệp sát, xa lìa nghiệp sát, trừ nghiệp không cho mà lấy, tà dâm, vọng ngôn, cho đến trừ bỏ việc uống rượu, xa lìa việc uống rượu. Này A nan, nếu có người nhờ người khác mà được quy y Phật, quy y phápquy y Tỳ kheo tăng, không nghi ngờ Phật, không nghi ngờ pháp, không nghi ngờ Tỳ kheo tăng, không nghi ngờ đối với khổ, tập, tận, đạo, đầy đủ tín tâm, giới cấm, bác văn, bố thí, đầy đủ trí tuệ, đoạn trừ nghiệp sát, xa lìa nghiệp sát, trừ nghiệp không cho mà lấy, tà dâm, vọng ngôn, cho đến trừ bỏ việc uống rượu, xa lìa việc uống rượu. Này A nan, giả như người này suốt đời cúng dường cho người kia y phục, giường chõng, thuốc thang chữa bệnh lúc đau ốm, mà chẳng lẽ người kia lại không báo ơn sao?

Lại nữa này A nan, nữ nhơn phải phụng hành tám trọng pháp này và không được vi phạm. Nữ nhơn phải suốt đời trì giới này. Này A nan, cũng như người đánh cá giỏi hay đệ tử của y vào trong nước sâu để thả lưới, phải đắp đập trong đó để giữ nước không cho chảy ra ngoài. Cũng vậy này A nan, nữ nhân phải phụng hành tám trọng pháp, không được vi phạm. Nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời. Tám giới đó là những gì?

Này A nan, Tỳ kheo ni phải cầu thọ giới cụ túc nơi Tỳ kheo. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhơn tuyên bố trọng pháp thứ nhất, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni mỗi nữa tháng phải đến thọ lễ tiết (thọ giáo) nơi Tỳ kheo. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ hai, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, nếu nơi vùng không có Tỳ kheo, thì Tỳ kheo ni không được thọ an cư. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ ba, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni sau khi thọ an cư phải đối trước hai bộ chúng thỉnh cầu chỉ rõ về ba sự thọ tuế: thấy, nghe và nghi. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ tư, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, nếu Tỳ kheo không cho phép Tỳ kheo ni thưa hỏi thì Tỳ kheo ni không được thưa hỏi Tỳ kheo về khế kinh, luật hoặc A tỳ đàm. Này A nan, nếu Tỳ kheo cho phép thì Tỳ kheo ni mới được thưa hỏi Tỳ kheo về khế kinh, luật hoặc A tỳ đàm. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ năm, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni không được phép nói về điều trái phạm thấy, nghe và nghi của Tỳ kheo, nhưng Tỳ kheo được quyền nói điều trái phạm về thấy, nghe và nghi của Tỳ kheo ni. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ sáu, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni nếu phạm Tăng già bà thi sa thì phải đối trước hai bộ chúng hành ý hỷ trong vòng mười lăm ngày. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ bảy, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni dù đã thọ giới cụ túc đến một trăm năm, nhưng đối với một vị Tỳ kheo mới thọ giới cụ túc vẫn phải cúi lạy sát chân, phải cung kính, vâng lời. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ tám, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố tám trọng pháp này, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, nếu Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di phụng trì tám trọng pháp ấy thì được ở trong pháp luật này mà học đạo, được thọ giới cụ túc làm Tỳ kheo ni. Khi ấy tôn giả A nan nghe đức Thế tôn dạy, khéo nhận lãnh, tư duy, tụng tập, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, nhiễu quanh rồi đi ra đến chỗ Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di, đến xong nói với Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di như vầy: “Ðược rồi, này Cù Ðàm Di. Nữ nhân đã được phép ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo. Này Cù Ðàm Di, đức Thế tôn nói như vầy: “Nữ nhân phải thực hành tám trọng pháp, không được vi phạm, nữ nhân phải suốt đời giữ giới này. Những gì là tám?

Này Cù Ðàm Di, Tỳ kheo ni phải cầu thọ giới cụ túc nơi Tỳ kheo. Này Cù Ðàm Di, đó là đức Thế tônnữ nhântuyên bố trọng pháp thứ nhất này, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy phụng trì giới này suốt đời. Cho đến này Cù Ðàm Di, Tỳ kheo nithọ cụ túc giới một trăm năm nhưng đối trước Tỳ kheo mới thọ giới cụ túc vẫn phải đảnh lễ sát chân, cung kính lễ bái vâng lời. Này Cù Ðàm Di, đó là đức Thế tônnữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ tám này, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân suốt đời thọ giới này.

Này Cù Ðàm Di, đó là đức Thế tônnữ nhân tuyên bố tám trọng pháp này. Hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân suốt đời thọ giới này. Này Cù Ðàm Di, nếu có thể phụng trì tám trọng pháp này thì nữ nhân sẽ được ở trong pháp luật này học đạo, thọ giới cụ túc làm Tỳ kheo ni.

Khi ấy Cù Ðàm Di thưa: “Ðúng vậy. Này tôn giả A nan, hãy nghe tôi nói một ví dụ, người trí tuệ nghe ví dụ liền hiểu rõ ý nghĩa. Thưa tôn giả A nan, ví như có người nữ Sát lợi, người nữ Bà la môn, người nữ Công sư, người nữ thường dân, tắm gội sạch sẽ, lấy hương xoa thân thể, mặc y phục mới. Hoặc có người nghĩ như vầy: “Ta thương yêu nàng, muốn làm cho nàng được lợi ích, muốn nàng được an ổn, liền đem tràng hoa sen xanh, tràng hoa Chiêm bặc, tràng hoa Mạn bà sưtràng hoa Mạn a đề mâu đa trao tặng cho nàng. Thiếu nữ ấy nhận lãnh cả hai tay, đem cài lên đầu mình”. Cũng vậy, thưa tôn giả A nan, đức Thế tôn vì người nữ mà tuyên bố tám trọng pháp này, tôi nguyện suốt đời nhận lãnh và thọ trì”.

Tôn giả A nan bảo: “Này Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di, hãy ở trong pháp luật này học đạo, thọ giới cụ túc, làm Tỳ kheo ni”. Bấy giờ Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di sau này cùng các chúng Tỳ kheo ni kỳ túc với các trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo ni đồng tu phạm hạnh, đồng đi đến chỗ tôn giả A nan, đến xong cúi đầu đảnh lễ dưới chân tôn giả A nan rồi đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi thưa tôn giả A nan: “Thưa tôn giả A nan, các Tỳ kheo ni này là bậc trưởng lão thượng tôn đều tu hành phạm hạnh. Còn các Tỳ kheo kia nhỏ tuổi, mới học đạo chưa bao lâu, vào trong pháp luật này chưa lâu. Mong rằng các Tỳ kheo này đối với các Tỳ kheo ni là những trưởng lão phải đảnh lễ, vâng lời”.

Khi ấy tôn giả A nan nói: “Thôi đi, này Cù Ðàm Di. Ðể tôi đi đến chỗ đức Thế tôn thưa hỏi việc này”. Cù Ðàm Di thưa: “Kính vâng, thưa tôn giả A nan”.

Lúc bấy giờ tôn giả A nan đi đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ đức Thế tôn và đứng qua một bên, bạch đức Thế tôn rằng: “Bạch Thế tôn, ngày hôm nay Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di cùng các Tỳ kheo ni đều là bậc trưởng lão thượng tôn đồng tu phạm hạnh, đi đến chỗ con, đến xong đảnh lễ dưới chân con rồi đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi nói với con: “Thưa tôn giả A nan, nên biết các Tỳ kheo ni này là bậc trưởng lão thượng tôn đồng tu phạm hạnh, còn các Tỳ kheo kia là những người trẻ tuổi, học đạo chưa bao lâu và ở trong pháp luật này cũng chưa lâu. Vậy hãy bảo các Tỳ kheo này nên đối với các trưởng lão Tỳ kheo ni này xem như bậc trưởng lão mà đảnh lễ, vâng lời”. Ðức Thế tôn nói: “Thôi đi này A nan. Hãy gìn giữ lời nói này. Ngươi chớ có nói lại điều ấy nữa. Này A nan, hãy biết như điều ta biết, một điều cũng không thể bỏ được, huống gì lại nói những lời ấy.

Này A nan, nếu nữ nhân mà không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ ấy sẽ lấy áo trải trên đất mà nói rằng: “Này các Sa môngiới hạnh, ngài có thể đi lên trên này. Thưa Sa môn tinh tấn, ngài đã làm việc khó làm khiến cho chúng tôi mãi mãi được sự lợi ích ý nghĩa”.

Này A nan, nếu nữ nhân mà không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ ấy sẽ đem đầu tóc mình trải trên đất mà nói rằng: “Thưa Sa môn, ngài hãy đi lên trên này. Sa môn trì giới hạnh hết sức khó khăn khiến cho chúng tôi mãi mãi được ý nghĩa lợi ích”.

Này A nan, nếu nữ nhân không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ sẽ đứng bên đường, hai tay bưng đầy thức ăn và nói rằng: “Thưa chư hiền, xin thọ nhận món ăn này, tùy ýthọ dụng để cho chúng tôi mãi mãi được an ổn, ý nghĩa và lợi ích”.

Này A nan, nếu nữ nhân không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ sẽ tin tưởng các Sa môn giới hạnh, lấy tay dìu đỡ vào nhà, đem các vật dụng ra cúng dường và nói rằng: “Tùy ý chư hiền thọ dụng vật dụng này khiến cho chúng con mãi mãi được an ổn, ý nghĩa và lợi ích”.

Này A nan, nếu nữ nhân không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì dù cho mặt trời, mặt trăng này có đại oai thần, có đại năng lực nhưng đối trước sức quang minh của vị Sa môn giữ giới kia vẫn không thể sánh bằng, huống nữa là đối với các hàng ngoại đạohọc thuyết khác, tệ ác thì làm sao sánh kịp.

Này A nan, nếu nữ nhân mà không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì chánh pháp sẽ tồn tại đến ngàn năm. Thế nhưng bây giờ đã mất hết 500 năm, chỉ còn lại có 500 năm.

Này A nan, có năm việc nữ nhân không thể làm được: nữ nhân không thể thành Như lai, bậc Vô sở trước đẳng chánh giác, hoặc Chuyển luân vương, không thể làm Thiên đế thích, không thể làm Ma vương hay Ðại phạm thiên. Nhưng có năm việc mà nam nhân có thể làm được. Ðó là nam nhân có thể thành Như lai, bậc Vô sở trước đẳng chánh giác, hoặc Chuyển luân vương, Thiên đế thích, Ma vương hay Ðại phạm thiên, điều này chắc chắn có thật.

Ðức Phật thuyết như vậy, tôn giả A nan nghe đức Thế tôn dạy xong, vui mừng hoan hỷ

PHẬT NÓI KINH CÙ ÐÀM DI KÝ QUẢ 

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13761)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13154)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13593)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12509)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12098)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12922)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13019)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13254)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21360)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143751)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 15688)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 81310)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19587)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20239)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 19284)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15194)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 13067)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13142)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48993)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14782)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18618)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16420)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 19372)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28052)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 22188)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23331)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 64832)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33211)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40190)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 27319)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 74906)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36155)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48997)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31023)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33944)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 58833)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46269)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43839)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43229)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45933)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48036)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 34630)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33449)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43927)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 52935)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 40473)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43486)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31452)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 28695)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 31890)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28829)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33364)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29136)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60976)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39772)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 29665)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37377)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 26837)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42657)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 26394)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant