Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Cù Đàm Di Ký Quả

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11523)
Kinh Cù Đàm Di Ký Quả


PHẬT NÓI KINH CÙ ÐÀM DI KÝ QUẢ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0060 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Ðời Lưu Tống, Tam tạng Pháp sư Huệ Giản.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy một thời Bà Già Bà ở trong vườn Ni câu Lư, thành Ca Duy La Vệ, Thích Cơ Sấu, cùng chúng đại Tỳ kheo thọ tuế (an cư). Bấy giờ Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, xong đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi bạch Thế tôn rằng: “Bạch đức Thế tôn, nữ nhân có thể đắc quả sa môn thứ tư được chăng? Nữ nhơn có thể ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo được chăng?”.

Ðức Thế tôn dạy: “Thôi đi này Cù Ðàm Di, không nên nói như vậy. Nữ nhân không nên ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình xuất gia học đạo được, cạo tóc, khoác áo ca sa, nguyện suốt đời thực hành phạm hạnh thanh tịnh”. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di bị đức Thế tôn ngăn cản, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, nhiễu quanh đức Thế tôn rồi trở về.

Bấy giờ các Tỳ kheo làm y của đức Thế tôn. Ðức Thế tôn không bao lâu thì đến Thích Cơ Sấu để thọ tuế (an cư). Sau khi trải qua ba tháng thọ tuế xong và đã làm y rồi. Sau khi y đã xong, ngài khoác y, ôm bát du hành trong nhơn gian.

Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di nghe các Tỳ kheo đã làm y của đức Thế tôn xong, đức Thế tôn không bao lâu nữa sẽ đến Thích Cơ Sấu để thọ tuế. Sau khi trải qua ba tháng thọ tuế xong, làm y rồi, ngài khoác y, ôm bát du hành nhân gian. Sau khi nghe tin Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di lại đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã đứng qua một bên rồi, bạch đức Thế tôn: “Bạch Thế tôn, có thể nào làm cho nữ nhân đắc quả sa môn thứ tư chăng? Do đó nữ nhân có thể ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, từ bỏ gia đìnhhọc đạo được chăng?”

Ðức Thế tôn lại nói: “Thôi đi này Cù Ðàm Di. Ðừng nói như vậy. Nữ nhân không nên ở trong pháp luật này vui thích xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo, cạo tóc, mặc áo ca sa, nguyện suốt đời tu hành phạm hạnh thanh tịnh”. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã bị đức Thế tôn ngăn cản lần thứ hai, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn nhiễu quanh rồi ra về. Bấy giờ đức Thế tôn ở Thích Cơ Sấu đã thọ tuế an cư sau ba tháng xong, đã làm y rồi, ngài khoác y, ôm bát và đi du hành nhân gian. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di ... nhân gian.

Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã nghe tin như vậy rồi liền cùng các lão nữ nhân đi theo sau đức Thế tôn. Bấy giờ đức Thế tôn thứ lớp du hành đến Na Bà Ðề, ngài dừng chân ở Na Bà Ðề, Kỳ Ni Xá. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân Thế tôn, rồi đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi, bạch Thế tôn: “Bạch Thế tôn, nữ nhân có cách nào để đắc quả sa môn thứ tư chăng? Do đó nữ nhân có thể ở trong pháp luật này tin vui, xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo được chăng?”.

Ðức Thế tôn nói lại lần thứ ba: “Thôi đi này Cù Ðàm Di. Không thể như vậy. Nữ nhân không được ở trong pháp luật này xuất gia, từ bỏ gia đìnhhọc đạo, cạo tóc, mặc áo ca sa, nguyện suốt đời hành phạm hạnh thanh tịnh”. Khi ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di bị Thế tôn ngăn cản lần thứ ba, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn nhiễu quanh rồi đi ra.

Lúc ấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di chân tay lấm lem, thân thể dính đầy bụi bậm, vô cùng mệt mõi, đứng ngoài cửa buồn rầu khóc lóc. Tôn giả A nan từ xa trông thấy Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di chân tay lấm lem, thân thể dính đầy bụi bậm, vô cùng mệt mõi, đứng ngoài cửa mà khóc, thấy xong tôn giả hỏi: “Cù Ðàm Di? Vì lý do gì mà tay chân lấm lem, thân thể dính đầy bụi bậm, vô cùng mệt mõi, đứng ngoài cửa buồn rầu khóc lóc như vậy?”. Cù Ðàm Di thưa: “Thưa tôn giả A nan, nữ nhân không được ở trong pháp luật này, không được tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo”. Tôn giả A nan nói: “Này Cù Ðàm Di, hãy đứng dậy, để tôi đi đến chỗ đức Thế tôn và thưa việc này cho”.

Bấy giờ tôn giả A nan đi đến chỗ đức Thế tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân Thế tôn xong đứng qua một bên. Tôn giả A nan đứng qua một bên rồi bạch rằng: “Bạch Thế tôn, nữ nhân có thể đắc quả sa môn thứ tư chăng? Do đó nữ nhân có thể ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, bỏ nhà học đạo được chăng?”. Ðức Thế tôn dạy: “Này A nan, thôi đi đừng nói nữa. Nữ nhân không được ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, từ bỏ gia đìnhhọc đạo. Này A nan, nếu nữ nhân được ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo thì phạm hạnh này sẽ không được tồn tại lâu dài. Này A nan, ví như gia đình có nhiều người nữ, ít người nam thì gia đình này có hưng thịnh lên không?”. - Bạch Thế tôn, không thể.

-Cũng vậy, này A nan, nếu cho nữ nhân được xuất gia ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo thì phạm hạnh sẽ không được tồn tại lâu dài. Này A nan, giống như trong ruộng lúa dé, lúa tẻ đang lên phơi phới, nữa chừng thì bị mưa đá làm cho tổn hại. Ðám ruộng tốt ấy nhân vì mưa đá nên bị bại hoại. Cũng vậy này A nan, nếu có nữ nhân ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo thì phạm hạnh này sẽ không được tồn tại lâu dài.

Tôn giả A nan lại bạch: “Bạch Thế tôn, Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã đem lại lợi ích cho Thế tôn. Sau khi thân mẫu Thế tôn mạng chung thì Cù Ðàm Di đã nuôi lớn Thế tôn bằng dòng sữa của bà”.

Ðức Thế tôn dạy: “Ðúng vậy, này A nan, Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đã đem lại cho ta nhiều lợi ích. Khi thân mẫu của ta mạng chung thì bà đã dùng sữa của bà để nuôi lớn ta. Nhưng này A nan, ta cũng đã đem lại nhiều lợi ích cho Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di. Nhờ ta mà bà quy y ta (Phật), quy y phápquy y Tỳ kheo tăng, không nghi ngờ đối với Phật pháp, không nghi ngờ đối với chúng tăng, không nghi ngờ đối với khổ, tập, tận, đạo, đầy đủ tín tâm, giới cấm, bác văn, bố thí, đầy đủ trí tuệ, đoạn trừ nghiệp sát, xa lìa nghiệp sát, trừ nghiệp không cho mà lấy, tà dâm, vọng ngôn, cho đến trừ bỏ việc uống rượu, xa lìa việc uống rượu. Này A nan, nếu có người nhờ người khác mà được quy y Phật, quy y phápquy y Tỳ kheo tăng, không nghi ngờ Phật, không nghi ngờ pháp, không nghi ngờ Tỳ kheo tăng, không nghi ngờ đối với khổ, tập, tận, đạo, đầy đủ tín tâm, giới cấm, bác văn, bố thí, đầy đủ trí tuệ, đoạn trừ nghiệp sát, xa lìa nghiệp sát, trừ nghiệp không cho mà lấy, tà dâm, vọng ngôn, cho đến trừ bỏ việc uống rượu, xa lìa việc uống rượu. Này A nan, giả như người này suốt đời cúng dường cho người kia y phục, giường chõng, thuốc thang chữa bệnh lúc đau ốm, mà chẳng lẽ người kia lại không báo ơn sao?

Lại nữa này A nan, nữ nhơn phải phụng hành tám trọng pháp này và không được vi phạm. Nữ nhơn phải suốt đời trì giới này. Này A nan, cũng như người đánh cá giỏi hay đệ tử của y vào trong nước sâu để thả lưới, phải đắp đập trong đó để giữ nước không cho chảy ra ngoài. Cũng vậy này A nan, nữ nhân phải phụng hành tám trọng pháp, không được vi phạm. Nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời. Tám giới đó là những gì?

Này A nan, Tỳ kheo ni phải cầu thọ giới cụ túc nơi Tỳ kheo. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhơn tuyên bố trọng pháp thứ nhất, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni mỗi nữa tháng phải đến thọ lễ tiết (thọ giáo) nơi Tỳ kheo. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ hai, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, nếu nơi vùng không có Tỳ kheo, thì Tỳ kheo ni không được thọ an cư. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ ba, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni sau khi thọ an cư phải đối trước hai bộ chúng thỉnh cầu chỉ rõ về ba sự thọ tuế: thấy, nghe và nghi. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ tư, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, nếu Tỳ kheo không cho phép Tỳ kheo ni thưa hỏi thì Tỳ kheo ni không được thưa hỏi Tỳ kheo về khế kinh, luật hoặc A tỳ đàm. Này A nan, nếu Tỳ kheo cho phép thì Tỳ kheo ni mới được thưa hỏi Tỳ kheo về khế kinh, luật hoặc A tỳ đàm. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ năm, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni không được phép nói về điều trái phạm thấy, nghe và nghi của Tỳ kheo, nhưng Tỳ kheo được quyền nói điều trái phạm về thấy, nghe và nghi của Tỳ kheo ni. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ sáu, nữ nhân không được vi phạm, nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni nếu phạm Tăng già bà thi sa thì phải đối trước hai bộ chúng hành ý hỷ trong vòng mười lăm ngày. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ bảy, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, Tỳ kheo ni dù đã thọ giới cụ túc đến một trăm năm, nhưng đối với một vị Tỳ kheo mới thọ giới cụ túc vẫn phải cúi lạy sát chân, phải cung kính, vâng lời. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ tám, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời. Này A nan, đó là ta đã vì nữ nhân tuyên bố tám trọng pháp này, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân phải phụng trì giới này suốt đời.

Này A nan, nếu Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di phụng trì tám trọng pháp ấy thì được ở trong pháp luật này mà học đạo, được thọ giới cụ túc làm Tỳ kheo ni. Khi ấy tôn giả A nan nghe đức Thế tôn dạy, khéo nhận lãnh, tư duy, tụng tập, đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn, nhiễu quanh rồi đi ra đến chỗ Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di, đến xong nói với Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di như vầy: “Ðược rồi, này Cù Ðàm Di. Nữ nhân đã được phép ở trong pháp luật này tin vui xuất gia, từ bỏ gia đình học đạo. Này Cù Ðàm Di, đức Thế tôn nói như vầy: “Nữ nhân phải thực hành tám trọng pháp, không được vi phạm, nữ nhân phải suốt đời giữ giới này. Những gì là tám?

Này Cù Ðàm Di, Tỳ kheo ni phải cầu thọ giới cụ túc nơi Tỳ kheo. Này Cù Ðàm Di, đó là đức Thế tônnữ nhântuyên bố trọng pháp thứ nhất này, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy phụng trì giới này suốt đời. Cho đến này Cù Ðàm Di, Tỳ kheo nithọ cụ túc giới một trăm năm nhưng đối trước Tỳ kheo mới thọ giới cụ túc vẫn phải đảnh lễ sát chân, cung kính lễ bái vâng lời. Này Cù Ðàm Di, đó là đức Thế tônnữ nhân tuyên bố trọng pháp thứ tám này, hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân suốt đời thọ giới này.

Này Cù Ðàm Di, đó là đức Thế tônnữ nhân tuyên bố tám trọng pháp này. Hãy khiến nữ nhân không được vi phạm, hãy khiến nữ nhân suốt đời thọ giới này. Này Cù Ðàm Di, nếu có thể phụng trì tám trọng pháp này thì nữ nhân sẽ được ở trong pháp luật này học đạo, thọ giới cụ túc làm Tỳ kheo ni.

Khi ấy Cù Ðàm Di thưa: “Ðúng vậy. Này tôn giả A nan, hãy nghe tôi nói một ví dụ, người trí tuệ nghe ví dụ liền hiểu rõ ý nghĩa. Thưa tôn giả A nan, ví như có người nữ Sát lợi, người nữ Bà la môn, người nữ Công sư, người nữ thường dân, tắm gội sạch sẽ, lấy hương xoa thân thể, mặc y phục mới. Hoặc có người nghĩ như vầy: “Ta thương yêu nàng, muốn làm cho nàng được lợi ích, muốn nàng được an ổn, liền đem tràng hoa sen xanh, tràng hoa Chiêm bặc, tràng hoa Mạn bà sưtràng hoa Mạn a đề mâu đa trao tặng cho nàng. Thiếu nữ ấy nhận lãnh cả hai tay, đem cài lên đầu mình”. Cũng vậy, thưa tôn giả A nan, đức Thế tôn vì người nữ mà tuyên bố tám trọng pháp này, tôi nguyện suốt đời nhận lãnh và thọ trì”.

Tôn giả A nan bảo: “Này Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di, hãy ở trong pháp luật này học đạo, thọ giới cụ túc, làm Tỳ kheo ni”. Bấy giờ Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di sau này cùng các chúng Tỳ kheo ni kỳ túc với các trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo ni đồng tu phạm hạnh, đồng đi đến chỗ tôn giả A nan, đến xong cúi đầu đảnh lễ dưới chân tôn giả A nan rồi đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi thưa tôn giả A nan: “Thưa tôn giả A nan, các Tỳ kheo ni này là bậc trưởng lão thượng tôn đều tu hành phạm hạnh. Còn các Tỳ kheo kia nhỏ tuổi, mới học đạo chưa bao lâu, vào trong pháp luật này chưa lâu. Mong rằng các Tỳ kheo này đối với các Tỳ kheo ni là những trưởng lão phải đảnh lễ, vâng lời”.

Khi ấy tôn giả A nan nói: “Thôi đi, này Cù Ðàm Di. Ðể tôi đi đến chỗ đức Thế tôn thưa hỏi việc này”. Cù Ðàm Di thưa: “Kính vâng, thưa tôn giả A nan”.

Lúc bấy giờ tôn giả A nan đi đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ đức Thế tôn và đứng qua một bên, bạch đức Thế tôn rằng: “Bạch Thế tôn, ngày hôm nay Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di cùng các Tỳ kheo ni đều là bậc trưởng lão thượng tôn đồng tu phạm hạnh, đi đến chỗ con, đến xong đảnh lễ dưới chân con rồi đứng qua một bên. Ðại nữ nhơn Cù Ðàm Di đứng qua một bên rồi nói với con: “Thưa tôn giả A nan, nên biết các Tỳ kheo ni này là bậc trưởng lão thượng tôn đồng tu phạm hạnh, còn các Tỳ kheo kia là những người trẻ tuổi, học đạo chưa bao lâu và ở trong pháp luật này cũng chưa lâu. Vậy hãy bảo các Tỳ kheo này nên đối với các trưởng lão Tỳ kheo ni này xem như bậc trưởng lão mà đảnh lễ, vâng lời”. Ðức Thế tôn nói: “Thôi đi này A nan. Hãy gìn giữ lời nói này. Ngươi chớ có nói lại điều ấy nữa. Này A nan, hãy biết như điều ta biết, một điều cũng không thể bỏ được, huống gì lại nói những lời ấy.

Này A nan, nếu nữ nhân mà không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ ấy sẽ lấy áo trải trên đất mà nói rằng: “Này các Sa môngiới hạnh, ngài có thể đi lên trên này. Thưa Sa môn tinh tấn, ngài đã làm việc khó làm khiến cho chúng tôi mãi mãi được sự lợi ích ý nghĩa”.

Này A nan, nếu nữ nhân mà không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ ấy sẽ đem đầu tóc mình trải trên đất mà nói rằng: “Thưa Sa môn, ngài hãy đi lên trên này. Sa môn trì giới hạnh hết sức khó khăn khiến cho chúng tôi mãi mãi được ý nghĩa lợi ích”.

Này A nan, nếu nữ nhân không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ sẽ đứng bên đường, hai tay bưng đầy thức ăn và nói rằng: “Thưa chư hiền, xin thọ nhận món ăn này, tùy ýthọ dụng để cho chúng tôi mãi mãi được an ổn, ý nghĩa và lợi ích”.

Này A nan, nếu nữ nhân không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì các Bà la môn, cư sĩ sẽ tin tưởng các Sa môn giới hạnh, lấy tay dìu đỡ vào nhà, đem các vật dụng ra cúng dường và nói rằng: “Tùy ý chư hiền thọ dụng vật dụng này khiến cho chúng con mãi mãi được an ổn, ý nghĩa và lợi ích”.

Này A nan, nếu nữ nhân không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì dù cho mặt trời, mặt trăng này có đại oai thần, có đại năng lực nhưng đối trước sức quang minh của vị Sa môn giữ giới kia vẫn không thể sánh bằng, huống nữa là đối với các hàng ngoại đạohọc thuyết khác, tệ ác thì làm sao sánh kịp.

Này A nan, nếu nữ nhân mà không ở trong pháp luật này, tin vui xuất gia, lìa bỏ gia đình học đạo, thì chánh pháp sẽ tồn tại đến ngàn năm. Thế nhưng bây giờ đã mất hết 500 năm, chỉ còn lại có 500 năm.

Này A nan, có năm việc nữ nhân không thể làm được: nữ nhân không thể thành Như lai, bậc Vô sở trước đẳng chánh giác, hoặc Chuyển luân vương, không thể làm Thiên đế thích, không thể làm Ma vương hay Ðại phạm thiên. Nhưng có năm việc mà nam nhân có thể làm được. Ðó là nam nhân có thể thành Như lai, bậc Vô sở trước đẳng chánh giác, hoặc Chuyển luân vương, Thiên đế thích, Ma vương hay Ðại phạm thiên, điều này chắc chắn có thật.

Ðức Phật thuyết như vậy, tôn giả A nan nghe đức Thế tôn dạy xong, vui mừng hoan hỷ

PHẬT NÓI KINH CÙ ÐÀM DI KÝ QUẢ 

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43945)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43034)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49024)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39854)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53792)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36832)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40821)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49742)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47327)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27743)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25858)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24763)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21316)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23227)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23879)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22804)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29574)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20641)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34167)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24680)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20223)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20404)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23900)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34079)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 24004)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29195)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60161)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27623)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68749)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24537)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26360)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20825)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20065)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27555)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46442)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25580)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29269)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188996)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27434)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31137)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33170)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 24033)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25628)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26708)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36664)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27350)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30374)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37325)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23898)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36978)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27600)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28337)
Công Phu Khuya
(Xem: 24164)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant