Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tỳ Kheo Chiêm Bà

15 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13472)
Kinh Tỳ Kheo Chiêm Bà


KINH TỲ KHEO CHIÊM BÀ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0064 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn, Sa môn Thích Pháp Cự.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 


Nghe như vầy, một thời Bà Già Bà ở tại Chiêm bà, bên bờ hồ Hằng Già. Bấy giờ đức Thế tôn vào ngày thứ mười lăm trong tháng là ngày thuyết giới. Ngài ngồi trước Tỳ kheo tăng. Sau khi ngồi xong, ngài quan sát tâm niệm của các Tỳ kheo. Quán sát tâm niệm của các Tỳ kheo rồi, ngài ngồi im lặng cho đến hết buổi đầu đêm.

Bấy giờ có một thầy Tỳ kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai, chấp tay hướng về đức Phật và thưa: “Bạch Thế tôn, đã hết buổi đầu đêm, đức Thế tônTỳ kheo tăng ngồi đây đã lâu, ngưỡng mong đức Thế tôn thuyết giới”. Khi ấy đức Thế tôn vẫn ngồi im lặng. Như vậy cho đến nữa đêm, đức Thế tôn vẫn ngồi im lặng. Thấy vậy Tỳ kheo ấy lại chắp tay hướng về đức Phật bạch rằng: “Bạch Thế tôn, buổi đầu đêm đã qua, buổi nữa đêm sắp hết, đức Thế tônTỳ kheo tăng ngồi đây đã lâu, ngưỡng mong đức Thế tôn thuyết giới”. Khi ấy đức Thế tôn cũng ngồi im lặng. Bấy giờ là cuối nữa đêm, đức Thế tôn vẫn ngồi im lặng. Tỳ kheo ấy lần thứ ba bạch Thế tôn, chắp tay hướng về đức Phật thưa: “Bạch Thế tôn, đầu đêm đã qua, nữa đêm đã hết và cuối đêm sắp chấm dứt, mặt trời sắp mọc, không bao lâu nữa mặt trời sẽ mọc, đức Thế tôn và chúng Tỳ kheo ngồi đây đã lâu, cúi mong đức Thế tôn thuyết giới”.

Bấy giờ đức Thế tôn bảo Tỳ kheo ấy: “Ở trong chúng Tỳ kheo của ta có người bất tịnh”. Khi ấy tôn giả Ðại Mục Kiền Liên cũng có ở trong hội chúng này. Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên liền suy nghĩ: “Ðức Thế tôn định chỉ thầy Tỳ kheo nào mà nói rằng ở trong chúng đây có người bất tịnh. Ta hãy nên nhập tam muội chánh thọ Như kỳ tượng và bằng tam muội ý mà quán sát tâm niệm các Tỳ kheo”. Bấy giờ tôn giả Ðại Mục Kiền Liên liền nhập tam muội chánh thọ Như kỳ tượng, dùng tam muội ý mà quán sát tâm niệm các Tỳ kheo. Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên liền biết thầy Tỳ kheođức Thế tôn vừa nói. Bấy giờ tôn giả Ðại Mục Kiền Liên liền từ tam muội ra, đi đến chỗ Tỳ kheo kia, đến xong nắm tay kéo vị Tỳ kheo ấy ra ngoài cửa và nói: “Này người ngu si, hãy đi ra. Ngươi không được ở trong này, không có Tỳ kheo sống chung với ngươi đâu, nay ngươi không phải là Tỳ kheo nữa”.

Khi ấy tôn giả Ðại Mục Kiền Liên nắm tay kéo Tỳ kheo kia ra ngoài cửa rồi đóng cửa lại, đóng cửa xong đi đến chỗ Thế tôn, sau khi đảnh lễ dưới chân đức Thế tôn xong, ngồi qua một bên, tôn giả Ðại Mục Kiền Liên ngồi qua một bên xong, bạch đức Thế tôn: “Bạch Thế tôn, ngài nói trong chúng có một thầy Tỳ kheo bất tịnh. Con đã nắm tay kéo vị ấy ra ngoài cửa rồi. Con nói: này người ngu si kia, hãy đi ra. Ngươi không nên ở trong này, không có Tỳ kheo sống chung với ngươi đâu. Nay Tỳ kheo ấy đã ra ngoài rồi. Bạch Thế tôn, đầu đêm đã qua, nữa đêm cũng hết và cuối đêm sắp tàn. Bây giờ trời sắp sáng, mặt trời sắp mọc, không bao lâu nữa mặt trời sẽ mọc, đức Thế tônTỳ kheo tăng ngồi ở đây đã lâu rồi, ngưỡng mong đức Thế tôn thuyết giới”.

Ðức Phật dạy: “Này Mục Kiền Liên, kẻ ngu si kia sẽ mắc đại tội vì đã xúc nhiễu đức Thế tôn và chúng Tỳ kheo. Này Mục Kiền Liên, nếu ở trong chúng có Tỳ kheo bất tịnhNhư lai thuyết giới thì đầu của kẻ ngu ấy sẽ bị vỡ làm bảy phần. Cho nên này Mục Kiền Liên, kể từ ngày hôm nay trở về sau, các thầy hãy cùng nhau thuyết giới. Như lai sẽ không còn thuyết giới nữa. Vì sao vậy? Này Mục Kiền Liên, hoặc có một người ngu si, trải qua như vầy, quán biết khi duỗi, khi co, khi nắm, khi thả, khoác y Tăng già lê, ôm bát, nên đối với vị phạm hạnh khác thì tự xưng là phạm hạnh. Này Mục Kiền Liên, hoặc có bậc phạm hạnh biết được người ấy nên nghĩ như vầy: “Ðây là sự dối trá đối với Sa môn, đây là sự thô ác đối với Sa môn, đây là gai nhọn đối với Sa môn”. Bảo rằng đó không phải là Sa môn. Các vị ấy đã biết như vậy rồi liền bỏ kẻ ấy ra ngoài. Vì sao vậy? Vì sợ làm hủy hoại các Tỳ kheo thanh tịnh vậy.

Này Mục Kiền Liên, giống như trong lúa dé hoặc lúa tẻ đang tươi tốt, nếu trong ruộng ấy có loại cỏ ác sanh ra, cỏ này có gốc, lóng, lá, hạt đều giống hệt như lúa tẻ. Khi nó chưa có hạt thì hãy nhổ bỏ nó đi. Nó là loại cỏ làm hư hạt lúa dé, là gai nhọn đối với lúa dé, là thô ác đối với lúa dé. Kẻ nông dân bằng mọi cách nhổ nó bỏ ra ngoài. Vì sao vậy? Vì sợ nó làm hư lúa dé đang tươi tốt vậy. Cũng vậy, này Mục Kiền Liên, nếu có một người ngu nghĩ như vậy, quán sát rõ ràng khi co, khi duỗi, khi nắm, khi thả, lúc đắp y Tăng già lê, ôm bát mà đối với các phạm hạnh khác tự xưng là phạm hạnh, hoặc có bậc phạm hạnh biết được kẻ ấy hoặc nghĩ rằng đó là sự phá hoại của Sa môn, đó là gai chích của Sa môn, đó là sự thô ác đối với Sa môn. Vị Sa môn này thì không nói như vậy. Vị ấy biết xong liền đuổi kẻ ấy ra ngoài. Vì sao vậy? Vì sợ làm hư hoại các Tỳ kheo thanh tịnh khác.

Này Mục Kiền Liên, ví như người nông dân cư sĩ kia vào tháng mùa đông đem lúa ra dên, nếu là hạt lúa chắc thì nằm ở lại, ngoài ra các thứ hoặc cỏ, hoặc lá theo gió bay đi. Người ấy dên lúa hoàn toàn nhờ sức gió thổi đi. Người điền chủ cư sĩ ấy liền cầm chổi quét sạch sẽ. Vì sao vậy? Vì người ấy không muốn chúng làm hư hoại các hạt lúa chắc thật khác. Cũng vậy, này Mục Kiền Liên, nếu có người ngu si biết quán sát lúc co, lúc duỗi, khi nắm, khi mở, lúa khoác Tăng già lê, ôm bát giống như các vị phạm hạnh khác, rồi tự nói ta là vị phạm hạnh. Này Mục Kiền Liên, hoặc có bậc phạm hạnh khác biết được liền nghĩ đây là sự phá hoại của Sa môn, đây là gai nhọn của Sa môn, đây là sự thô ác của Sa môn. Vị kia biết rồi bèn đuổi kẻ ấy ra ngoài chúng. Vì sao vậy? Vì sợ làm hư hoại các Tỳ kheo thanh tịnh khác vậy.

Này Mục Kiền Liên, ví như điền chủ cư sĩ kia, muốn có nước, muốn cho nước chảy đến, người ấy cầm búa bén vào rừng, kẻ ấy cầm búa gõ vào các cây, nếu cây có lõi cứng thì tiếng đặc, còn cây có tiếng lớn là rỗng ruột. Sau khi biết rõ, người ấy liền chặt cây kia tận gốc rồi làm cho ruột cây rỗng suốt để làm máng dẫn nước. Cũng vậy này Mục Kiền Liên, hoặc có người ngu si biết quán sát rành rẽ khi co, khi duỗi, khi nắm, khi thả, khi khoác y Tăng già lê, ôm bát, đối với vị phạm hạnh khác tự xưng là phạm hạnh. Này Mục Kiền Liên, nếu có bậc phạm hạnh chân chánh biết được kẻ ấy liền nghĩ đây là sự phá hoại của Sa môn, sự thô ác của Sa môn, là gai nhọn của Sa môn, chẳng phải là Sa môn. Vị ấy biết rồi liền đuổi kẻ kia ra ngoài. Vì sao vậy? Vì sợ làm tổn hoại đến Tỳ kheo thanh tịnh vậy. Cho nên nói kệ:

Cùng ở phải nên biết.

Ác cầu và sân hận.

Sân hận, không xả tham.

Không bỏ huyễn, nịnh hót.

Với người dối nói tu.

Tự bảo là Sa môn.

Tự làm các hạnh ác.

Ác kiến chẳng an lạc.

Ðều không cho cùng hội.

Bỏ đi đừng ở chung.

Biết thời đồng tịnh hạnh.

Phân biệt ai đã nói.

Không tịnh bảo Sa môn.

Bỏ kẻ ác hạnh đi.

Ðừng ở chung kẻ ác.

Ngày nào cũng như vậy.

Sống hòa nhịp với nhau.

Sẽ tận cùng sự khổ.

Phật nói như vậy, các Tỳ kheo đã nghe đức Thế tôn dạy xong, hoan hỷ vui mừng

 

PHẬT NÓI KINH TỲ KHEO CHIÊM BÀ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12836)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12766)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11810)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11796)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12408)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12458)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19917)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12050)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12081)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16956)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12743)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15157)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16212)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12960)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12315)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11982)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11984)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13228)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16578)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13299)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12587)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11910)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19933)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11234)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11330)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10467)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11158)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11027)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10082)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11810)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11702)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12022)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11167)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11408)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12128)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12613)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10837)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18060)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11787)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10009)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11295)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13245)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16645)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11927)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10986)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11926)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28888)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12434)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53188)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35569)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16140)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12250)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12395)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11477)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17277)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15051)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14675)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13926)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11787)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15121)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant