Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16-16 Phẩm Đâu Xuất Đà Thiên Thọ

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8430)
16-16 Phẩm Đâu Xuất Đà Thiên Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Đâu Xuất Đà Thiên Thọ
Thứ Mười Sáu

 Bấy giờ có tám ức Đâu Suất Đà Thiên thấy A Tu La, Ca Lâu La nhẫn đến Dạ Ma Thiên cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở và nghĩ rằng : Nơi những pháp nào mà đức Thế Tôn thọ ký cho Vô thượng Bồ đề ? Là sắc thọ ký, thọ tưởng hành thức được thọ ký Vô thượng Bồ đềChư Thiên ấy lại nghĩ rằng : Chẳng phải thọ ký cho sắc, cũng phải thọ ký Vô thượng Bồ đề cho thọ tưởng hành thức. Tại sao ? Vì sắc đã chẳng sanh, Bồ đề cũng chẳng sanh, Thế nào sắc vô sanh mà ngộ được Bồ đề vô sanh, như vậy thọ tưởng hành và thức vô hành làm sao ngộ được Bồ đề vô sanh .Sắc đã chẳng diệt Bồ đề cũng chẳng diệt, thế nào sắc bất diệt lại ngộ được

 Bồ đề bất diệt, như vậy thọ tưởng hành và thức bất diệt làm sao ngộ được Bồ đề bất diệt.

 Sắc vô phân biệt, Bồ đề cũng vô phân biệt, thế nào sắc vô phân biệt lại ngộ được Bồ đề vô phân biệt, như vậy thọ tưởng hành và thức vô phân biệt làm sao ngộ được Bồ đề vô phân biệt.

 Sắc đã vô nhị, Bồ đề cũng vô nhị, thế nào sắc vô nhị lại ngộ được bồ đề vô nhị, như vậy thọ tưởng hành và thức vô nhị làm sao ngộ được Bồ đề vô nhị.

 Sắc đã vô tác, Bồ đề cũng vô tác, thế nào sắc vô tác lại ngộ được Bồ đề vô tác, như vậy thọ tưởng hành và thức vô tác làm sao ngộ được Bồ đề vô tác.
 Sắc đã bất khả đắc, Bồ đề cũng bất khả đắc, thế nào sắc bất khả đắc lại ngộ được Bồ đề bất khả đắc, như vậy thọ tưởng hành và thức bất khả đắc làm sao ngộ được Bồ đề bất khả đắc.

 Ở trong các pháp bất khả đắc ấy, gì là Phật, gì là Bồ đề, gì là Bồ Tát, gì là thọ ký. Sắc ấm không, thọ tưởng hành thức cũng đều không. Tại sao ? Vì tự tánh không vậy. Thế thì Phật không, Bồ đề không, Bồ Tát không, thọ ký không. Tại sao ? Vì tự thể không vậy. Trong tất cả pháp tánh không như vậy, nói rằng Phật ấy là danh là dụng là thế đế, chỉ là ngôn thuyết, chỉ là thi thuyết. Nói rằng sắc thọ tưởng hành thức cũng chỉ là danh là dụng là thế đếngôn thuyết là thi thiết. Người trí ở nơi đây chẳng nên tham trước.

 Ví như có người chiêm bao hưởng thọ ngũ dục lạc, lúc thức chẳng thấy sự vui ấy, vì nhớ lại chẳng được vui ngũ dục nên sanh khổ não.

 Người an trụ nơi Bồ Tát thừathủ trước, vì chẳng ngộ Bồ đề chẳng chứng Bồ đề nên chẳng được pháp vị ấy. Vì chẳng được pháp vị nên lòng sanh khổ não. Tại sao ? Vì các pháp như vậy đều như cảnh mộng chẳng thiệt có. Pháp ấy nghĩa sai biệt , hang phàm phu hiểu biết đều sai khác. Tất cả các pháp phải biết như vầy : Pháp nào là Phật, pháp nào là Bồ Tát, pháp nào là Bồ đề ? Các Phật pháp ấy đều bất khả đắc. Phàm phu bất khả đắc, pháp phàm phu cũng bất khả đắc. Thanh Văn bất khả đắc, pháp Thanh Văn cũng bất khả đắc. Bích Chi Phật bất khả đắc, pháp Bích Chi Phật cũng bất khả đắc. Bồ Tát bất khả đắc, pháp Bồ Tát cũng bất khả đắc. Chư Phật bất khả đắc, pháp chư Phật cũng bất khả đắc, Bồ đề bất khả đắc, Niết bàn cũng bất khả đắc. Trong các pháp như vậy, chúng tôi hiểu rõ không hoài nghi.

 Đâu Suất Đà Thiên ở trong pháp ấy không nghi ngờ rồi đối với Phật càng kính tin, thích dâng cúng dường. Họ cúng dường hơn trời Dạ Ma, đảnh lễ chưn Phật, nhiễu Phật ba vòng rồi đứng qua một phía nói kệ tán than đức Phật :

 “ Nhừng người an trụ Phật công đức
 Như Lai vì họ dạy pháp hành
 Họ được ba thứ giải thoát môn
 Tu hành trong cảnh giới vô đẳng
 Không sắc không thọ tưởng hành thức
 Không người hay thọ cũng không tâm
 Đây là cảnh giới trí vô ngại
 Thiên Nhơn Sư thích lìa dục ấm
 Bực trí huệ đại trượng phu ấy
 Chẳng lấy tưởng phát tâm Bồ đề
 Lìa Ấm rồi được thắng thiện căn
 Nơi Phật công đức không nghi lự
 Chí nguyện Vô thượng đại Bồ đề
 Nhưng với Bồ đề lìa thủ trước
 Vì vậy nội tâm không lo mừng
 Gọi là Phật tử tu thánh đạo
 Đồng Phật thấy pháp đều bình đẳng
 Thế nên vô pháp vô sở úy
 Người trí ở chỗ thế gian nầy
 Cầu Phật công đức khởi tu hành
 Giản trạch sắc tướng vô sở trước
 Vứt bỏ tấ cả tâm có tướng
 Nơi ba cõi kia chăảng mong muốn
 Quan sát các cõi thảy đều không
 Biết được ngũ ấm đều chẳng sanh
 Như Lai thọ ký đến Bồ đề
 Bồ đề tâm ấy cũng vô sanh
 Người nói lời nầy không ngu hoặc
 Như Lai công đứcsanh tử
 Các Phật pháp ấy đều vô sanh
 Người biết như vậy là trí huệ
 Đây là chơn thiệt con Như Lai
 Nếu biết được các ấm bất diệt
 Giới nhập và cùng pháp Như Lai
 Phật cùng Bồ đềthọ ký
 Các pháp như vạ-y đều bất diệt
 Nếu vì Bồ đềtu hành
 Phải biết người ấy cũng bất diệt
 Vì biết thế gianbất diệt
 Nên cầu Bồ đề chẳng là khó
 Năm ấm giới nhập và Bồ đề
 Bồ Tát cùng Phật đều vô tác
 Biết rõ như vậy là Phật tử
 Hay trì chánh pháp của Như Lai
 Ấm giới các nhập đều vô giác
 Bồ đề cùng Phật và Bồ Tát
 Và cùng thọ ký đều vô giác
 Người biết như vậy là Phật tử
 Ngũ ấm giới nhập tánh không tịch
 Phật cùng Bồ đềthọ ký
 Thiệt con của Phật người tu hành
 Tất cả cũng đều tự tánh không
 Ấm giới các nhập đều hư vọng
 Lưỡng Túc Thế Tôn và Bồ đề
 Bồ Tát thọ ký cũng hư vọng
 Biết rõ như vậy là Phật tử
 Chẳng phải y chỉ chẳng y chỉ
 Cũng phải pháp có pháp không
 Chẳng phải hữu vivô vi
 Biết rõ như vậy là Phật tử
 Thế Tôn thấy thế gian như vậy
 Chúng tôi biết tâm Phật như vậy
 Nên liền cúng dường lên Như Lai
 Cũng cúng tất cả chúng hiền thánh
 Chúng tôi khen Phật mà được phước
 Chỉ Phật Thế Tôn biết rõ được
 Đem công phước đức nầy thí quần sanh
 Nguyện đều thành Phật đủ tướng tốt ».

 Đức Thế Tôn biết trời Đâu Suất Đà tán thánthâm tâm tin ưa rồi liền hiện tướng mỉm cười.

 Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Phật :

 « Vô Thượng Sĩ được đại thế lực
 Do đại bi tâm hiện mỉm cười
 Nguyện Phật nói rõ duyên cớ cười
 Cho chúng được nghe đều mừng rỡ
 Vì thấy Như Lai hiện tướng cười
 Nên đại chúng nầy đều hoài nghi
 Chúng tôi ân cần khắp chiêm ngưỡng
 Thảy đều nhứt tâm muốn được nghe
 Dường như thế gian có người bịnh
 Chỉ tưởng y sư và lương dược
 Đại chúng như vậy đối với Phật
 Mong muốn được nghe Phật thọ
 Chúng ấy đều có trí huệ sâu
 Chí cầu Bồ đề vô sở trước
 Tất cả cung kính đồng chime ngưỡng
 Chỉ mong Như Lai nói ký biệt
 Thế Tôn nơi đây khởi đại bi
 Dùng Phật trí lực dứt lưới nghi
 Thế nên đại chúng đều mừng rỡ
 Thảy đều nguyện cầu Phật công đức
 Nay đúng là lúc Phật thọ
 Ngưỡng mong dứt trừ các nghi hoặc
 Phật đã từ lâu lìa oán dịch
 Nguyện dứt ngoại đạo các tà luận ”.

 Đức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã thắng :

 “ Nay ông thỉnh hỏi nơi Như Lai
 Nhơn duyên mỉm cười thật đúng lúc
 Vì lợi thế gian nên thưa hỏi
 Lòng vì lợi ích các chúng sanh
 Biết các chúng trời lòng ưa thích
 Nên Phật hiện tướng sáng mỉm cười
 Chúng trời biết Phật pháp thắng diệu
 Nên họ dâng cúng lên Như Lai
 Họ đều như thiệt thấy thế gian
 Tùy thuận thánh giáo được chứng pháp
 Đã đến ba thứ giải thoát môn
 Chẳng phải thế gian mà biết được
 Quá khứ đã cúng vô lượng Phật
 Cũng đã hỏi Phật nghĩa sâu ấy
 Nơi Phật quá khứ đã tu không
 Nên ngày hôm nay hiển không nghĩa
 Do thiện căn ấy nay tại đây
 Họ được gặp gỡ Thích Ca Tôn
 Dùng lý không khen đấng Vô Thượng
 Làm lợi tất cả các thế gian
 Thế gian như đây đều vô sanh
 Chư Phật Bồ đềthọ ký
 Bao nhiêu người tu hành Bồ đề
 Chúng ấy tất cả đều vô sanh
 Chúng sanh đều đồng có pháp nầy
 Biết như vậy rồi được Bồ đề
 Quá khứ đã được tâm Bồ đề
 Họ ở nghĩa nầy được biết rõ
 Thế gian như vậy cũng chẳng diệt
 Chúng trời Đâu Suất khéo thông đạt
 
 Trí sáng chiếu rõ đều không nghi
 Nên chúng trời ấy đều làm Phật
 Quyết định chắc được chỗ vô y
 Nơi pháp chẳng lấy lìa phân biệt
 Tất cả thế gian đều vô tác
 Nghĩa nầy chúng trời hay biết rõ
 Tất cả pháp thể lìa tự tánh
 Chúng trời lòng sạch không nghi hoặc
 Bồ đề và cùng tâm Bồ đề
 Tất cả đều không tự tánh không
 Chư Thiên Đâu Suất huệ kiên cố
 Thảy đều an trụ vô sở y
 Nên được Bồ đề chẳng là khó
 Chắc sẽ mau thành trí Vô Thượng
 Ở kiếp tinh tú đời vị lai
 Sẽ độ thoát được vô biên chúng
 Tất cả trời ấy đều thành Phật
 Đồng cùng danh hiệu Trạch Pháp Vương
 như Lai đối với chúng trời nầy
 Biết họ thích ưa nên thọ ký
 Tất cả đại chúng nghe Phật nói
 Thảy đều hớn hở vừa lòng dạ ”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43153)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 43944)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43030)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49016)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39849)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53786)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36828)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40815)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49740)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47317)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27722)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25853)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27178)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24761)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21311)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23224)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23877)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22791)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29570)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20638)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34166)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24675)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30034)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20221)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20404)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23881)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34071)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 24000)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29181)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60151)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27608)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68736)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24523)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26357)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20822)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20061)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27552)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46430)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25576)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29263)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188961)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27428)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31136)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33166)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 24025)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25621)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26707)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36659)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27346)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30372)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37320)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23891)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36972)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27598)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28334)
Công Phu Khuya
(Xem: 24159)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant