Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

31-pháp Hội Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di

01 Tháng Năm 201000:00(Xem: 8396)
31-pháp Hội Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di

KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XXXI
Pháp hội

HẰNG HÀ THƯỢNG ƯU BÀ DI

Thứ ba mươi mốt

Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt Dịch: Việt Nam Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Như vầy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc

Bấy giờ thành Xá VệƯu Bà Di tên Hằng Hà Thượng từ nhà đến chỗ đức Phật dảnh lễ chơn Phật rồi lui ngồi một phía. Đức Thế Tôn hỏi Ưu BÀ Di ấy rằng: Ngươi từ dâu đến?

-Bạch đức Thế Tôn Nếu hỏi hoá nhơn rằng từ đâu đến? Hỏi như vậy thì phải trả lời thế nào? 

- Nầy Ưu Bà Di! Luận về hóa nhơn không có vãng lai cũng không sanh diệt đâu nên nói là có chỗ từ đó mà đến. 

-Bạch đức Thế Tôn! Các pháp há chẳng phải đều như hóa cả ư?

-Nấy Ưu Bà Di! Đúng vậy. Đúng như lời ngươi nói. 

-Bạch đức THế Tôn! Nếu tất cả pháp đều như hóa thì sao hỏi rằng ngươi từ đâu đến? 

-Nầy Ưu Bà Di! Người huyễn hóa ấy chẳng đế ác đạo chẳng sanh lên trời chẳng chứng Niết bàn, nầy Hằng Hà Thượng! Ngươi cũng như vậy sao? 

-Bạch Đứ Thế Tôn! Nếu tôi thấy thân khác với huyễn hóa mới nên nói là qua ác đạo sanh thiện đạo chứng Niết bàn. Tôi chẳng thấy thân khác với huyễn hóa thì sao lại nói là qua ác đạo sanh thiện đạo chứng niết bàn

Lại nưã, bạch Thế Tôn! Như tánh niết bàn cứu cánh chẳng còn sanh thiệt ác đạoNiết bàn, tôi xem thân mình cũng vậy 

-Nầy Ưu Bà Di! Ngươi há chẳng xu hướng Niết bàn giới ư? 

-Bạch đức Thế Tôn! Nếu đem lời hỏi nầy hỏi nơi vô sanh thì nên trả lời thế nào? 

-Nầy Ưu Bà Di! Vô sanh tức là niết Bàn vậy 

-Bạch đức Thế Tôn! Các pháp há chẳng đề đồng niết bàn hư? 

-Nầy Ưu Bà Di! Đúng vậy. Đúng như lời ngươi nói. 

-Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đồng Niết bàn thì sao lại hỏi ngươi há chẳng xu hướng Niết bàn giới sao ư? 

Lại nữa bạch đức Thế Tôn! Ví như hóa nhơn hỏi hóa nhơn ngươi há chẳng xu hướng Niết bàn ư? Họ sẽ phải đáp thế nào? 

-Nầy Ưu BÀ Di! Họ hỏi như vậy không có phan duyên

-Bạch đức Thế Tôn! Đức Như Lai há lại dùng phan duyên để nêu lời hỏi ấy? 

-Nấy Ưu Bà Di! Lời ta hỏi cũng không phan duyên, nhưng vì trong pháp hội đây có thiên nam tử thiên nữ nhơn đáng được thành thục nên ta phát lời hỏi ấy. Tại sao? Vì Như Lai ở nơi danh tự các pháp ấy còn là bất khả đắc thì nào có các pháp và kẻ hay xu hướng Niết Bàn kia. 

-Bạch đức Thế Tôn! Nếu như vậy thì sao lại vì Bồ Đề mà tích tập thiện căn, vì chư Bồ Tát và chư thiện căn đều là bất khả đắc

-Nầy Ưu Bà Di! Lúc tích tập tức vô tâm vậy, lúc chẳng phải tích tập cũng như vậy. 

-Bạch đức Thế Tôn! Vô tâm được nói ấy là muốn thuyết minh nghiã gì? 

-Nầy Ưu Bà Di! Pháp ấy chẳng phải tư duy biết được cũng chẳng phải tư duy đến được. Tại sao? Vì trong ấy tâm còn là bất khả đắc huống là pháp được tâm sanh. Do vì tâm bất khả đắc nên gọi là chỗ bất tư nghị. Chỗ bất tư ngị ấy chẳng phải đắc chẳng phải nhiễm chẳng phải tịnh. Tại sao? Vì Như Lai thường nói các pháp như hư không không có chướng ngại vậy. 

-Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp như hư không sao đức Thế Tôn lại nói các sắc có các sác thọ tưởng hành thức cùng các giới xứ mười hai nhơn duyên hữu lậu vô lậu nhiễm là tịnh sanh tữ Niết bàn? 

-Nầy Ưu Bà Di! Như nói rằng: Ngã,dầu có lời nói mà thiệt không có ngã tướng để được. Ta nói các sắc cũng thiệt không có sắc tướng để được nhẫn đến nói Niết bàn cũng không có Niết bàn tướng để được. 

Nầy Ưu Bà Di! trong pháp của ta những người tu phạm hạnh thấy tất cả pháp đều vô sở đắc mới được gọi là người chơn tu phạm hạnh. Còn người tăng thượng mạn nói hữu sở đắc thì chẳng gọi là an trụ chơn phạm hạnh. Người tăng thượng mạn như vậy nghe thâm pháp nầy sanh lòng rất kinh nghi, họ chẳng giải thoát được sanh lảo bịnh tử ưu bi khổ não.

Nầy Ưu Bà Di! Sau khi ta diệt độ có người hay diễn thuyết pháp đoạn dứt lưu chuyễn thậm thâm nầy, có kẻ ngu siác kiến nên đối pháp sư sanh lòng sân hận, do đây họ bị sa đọa địa ngục

-Bạch đức Thế Tôn! Như đức Phật nói pháp dứt lưu chuyển, do nghiã gì mà gọi tên dứt lưu chuyễn? 

-Nầy Ưu Bà Di! Dứt lưu chuyễn là nói thiệt tế bất tư nghị giới, pháp nầy chẳng thể xoi đục trở hoại nên gọi tên là pháp dứt lưu chuyển ».

Bấy giờ đức thế Tôn vui vẻ mỉm cười, từ diện môn phóng ra những tia sáng xanh vàng đỏ trắng hồng tía pha lê chiếu suốt khắp vô lượng thế giới trên đến trời Phạm Thế rồi xong về nhập vào đảnh đức Như Lai

Tôn giả An Nam thấy sự ấy liền đứng dậy trịch vai hữu chấm đức chấp tay cung kính bạch Phật: «Bạch đức Thế Tôn! Do nhơn duyên gì mà hiện mỉm cười? ».

Đức Phật phán: «Nầy An Nan! Ta nhớ quá khức có ngàn đức Như Lai cũng tại xứ nầy nói pháp như vậy, trong các chúng hội kia cũng có Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di làm thượng thủƯu Bà Di kia và các các đại chúng nghe chư Như Lai kia nói pháp nầy rồi đều xuất gia ở nơi Vô dư Niết bàn mà được diệt độ ».

Tôn Giả An Nan bạch Phật: «Bạch đức Thế Tôn! Nên đặt tên kinh nầy là gì, chúng tôi phải thọ trì thế nào? ».

Đức Phật phán: «Nầy An nan! Kinh nầy tên là Vô Cấu Thanh Tịnh, các ông nên thọ trì như vậy ».

Lúc nói kinh nầy có bảy trăm Tỳ Kheo và bốn trăm Tỳ Kheo Ni hết hẳn các lậu tâm được giải thoát

Chư Thiên cỏi Dục đem các thứ hoa trời rải lên đức Phật mà nói rằng: « Ưu Bà Di nầy rất hi hửu có thể cùng đức Như Lai đối đáp được vô sở úy. Người nầy đã từng ở chỗ vô lượng chư Phật thân cận cúng dường vun trồng các thiện căn».

Đức Phật nói kinh nầy rồi, Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di và hàng đại chúng Thiên Long Bát Bộ nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.

Pháp Hội Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di
Thứ ba mươi mốt
Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43156)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 43945)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43033)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49024)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39853)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53789)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36832)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40819)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49742)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47327)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27742)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25858)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27179)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24763)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21316)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23226)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23879)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22802)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29574)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20641)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34167)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24676)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20222)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20404)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23899)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34079)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 24003)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29191)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60161)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27622)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68748)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24536)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26360)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20825)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20063)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27555)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46442)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25580)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29268)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188977)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27434)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31137)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33170)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 24033)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25625)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26708)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36663)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27349)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30373)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37324)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23893)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36978)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27600)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28336)
Công Phu Khuya
(Xem: 24164)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant