Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Sự Thật Của Bậc Thánh

27 Tháng Bảy 201609:28(Xem: 11090)
Kinh Sự Thật Của Bậc Thánh

KINH SỰ THẬT CỦA BẬC THÁNH

Phước Nguyên

Kinh Sự Thật Của Bậc Thánh


Tôi được nghe như vậy: 
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:

a.Này Bí-sô Tăng, đây là sự thật của bậc Thánh về sự khổ, nếu có ai đối với pháp chưa từng được nghe như vậy mà tư duy một cách đúng phương pháp thì nhất định phát sanh con mắt, sự nhận biết, sự thấu hiểu, sự tri nghiệm;

Đây là sự thật của bậc Thánh về tập khởi của khổ, nếu có ai đối với pháp chưa từng được nghe như vậy tư duy một cách đúng phương pháp, nhất định phát sanh con mắt, sự nhận biết, sự thấu hiểu, sự tri nghiệm;

Đây là sự thật của bậc Thánh về sự diệt tận tập khởi của khổ, nếu ai đối với pháp chưa từng được nghe như vậy tư duy một cách đúng phương pháp, nhất định phát sanh con mắt, sự nhận biết, sự thấu hiểu, sự tri nghiệm;

Đây là sự thật của bậc Thánh về con đường hướng đến sự diệt tận khổ, nếu ai đối với pháp chưa từng được nghe như vậy tư duy một cách đúng phương pháp, nhất định phát sanh con mắt, sự nhận biết, sự thấu hiểu, sự tri nghiệm;

b. Lại nữa, Bí-sô! Đây là sự thật của bậc Thánh về khổ, cần phải bằng thông tuệ mà thấu suốt hoàn toàn, nếu có ai đối với pháp chưa từng được nghe như vậy tư duy một cách đúng phương pháp thì nhất định phát sanh con mắt, sự nhận biết, sự thấu hiểu, sự tri nghiệm.

Đây là sự thật của bậc Thánh về tập khởi của khổ, cần phải bằng thông tuệ mà đoạn trừ hoàn toàn, nếu có ai đối với pháp chưa từng được nghe như vậy mà tư duy một cách đúng phương pháp thì nhất định phát sanh con mắt, sự nhận biết, sự thấu hiểu, sự tri nghiệm;

Đây là sự thật của bậc Thánh về sự diệt tận khổ, cần phải bằng thông tuệ mà thể nghiệm, nếu có ai đối với pháp chưa từng được nghe như vậy mà tư duy một cách đúng phương pháp thì nhất định phát sanh con mắt, sự nhận biết, sự thấu hiểu, sự tri nghiệm;

Đây là sự thật của bậc Thánh về con đường hướng đến sự diệt tận khổ cần phải bằng thông tuệtu tập, nếu có ai đối với pháp chưa từng được nghe như vậy mà tư duy một cách đúng phương pháp thì nhất định phát sanh con mắt, sự nhận biết, sự thấu hiểu, sự tri nghiệm.

c. Lại nữa, Bí-sô! Đây là sự thật của bậc Thánh về sự, Ta bằng thông tuệ đã thấu suốt hoàn toàn, nếu có ai đối với pháp chưa từng được nghe như vậy mà tư duy một cách đúng phương pháp thì nhất định pháp sanh con mắt, sự nhận biết, sự thấu hiểu, sự tri nghiệm;

Đây là sự thật của bậc Thánh về tập khởi của khổ, Ta bằng thông tuệ đã đoạn trừ vĩnh viễn, nếu có ai đối với pháp chưa từng được nghe như vậy tư duy một cách đúng phương pháp thì nhất định pháp sanh con mắt, sự nhận biết, sự thấu hiểu, sự tri nghiệm;

Đây là sự thật của bậc Thánh về sự diệt tận khổ, Ta bằng thông tuệ đã thể nghiệm, nếu có ai đối với pháp chưa từng được nghe như vậy mà tư duy một cách đúng phương pháp thì nhất định pháp sanh con mắt, sự nhận biết, sự thấu hiểu, sự tri nghiệm;

Đây là sự thật của bậc Thánh về con đường hướng đến sự diệt tận khổ, Ta bằng thông tuệ đã tu tập, nếu có ai đối với pháp chưa từng được nghe như vậy mà tư duy một cách đúng phương pháp thì nhất định pháp sanh con mắt, sự nhận biết, sự thấu hiểu, sự tri nghiệm.

d. Này Bí-sô nên biết, Ta ở trong bốn sự thật của bậc Thánh như vậy, nếu chưa ba lần vận chuyển với mười hai đặc điểm, nghĩa là chưa làm phát sanh con mắt, sự nhận biết, sự thấu hiểu, sự tri nghiệm; chưa thể giải thoát xuất li khỏi thế gian: Thiên, Nhân, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn; chưa thể diệt trừ điên đảo, vì tâm thường đứng vững vào đó; cũng chưa có thể như thật tự xưng rằng ta chứng nghiệm sự cao tuyệt của trí tuệ trực tiếp toàn diện.

Ta ở trong bốn sự thật của bậc Thánh  như vậy, vì đã ba lần chuyển vận với mười hai đặc điểm, nghĩa là đã làm phát sanh con mắt, sự nhận biết, sự thấu hiểu, sự tri nghiệm; liền có thể giải thoát xuất li ra khỏi thế gian: Thiên, Nhân, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn; đã diệt trừ điên đảo, vì tâm thường đứng vững trong đó; cũng đã như thật tự xưng rằng ta đã chứng nghiệm sự cao tuyệt của trí tuệ trực tiếp toàn diện.
Khi nói pháp này, trưởng lão Koṇḍañña và tám nghìn thiên tử xa lìa bụi bặm, thoát ly cấu bẩn, đối với các pháp phát sanh con mắt pháp minh tịnh.

Bấy giờ, Phật hỏi Koṇḍañña rằng:

“Đối với Pháp đã được công bố ông đã thấu hiểu chưa?”

Tôn giả Koṇḍañña thưa:

“Con nay đã thấu hiểu”.

Hỏi và đáp ba lần như vậy. Vì Koṇḍañña là người đầu tiên thấu hiểu pháp cho nên bấy giờ mọi người gọi vị đó là ‘aññāsi’.

Địa thần và Dược-xoa nghe lời đó rồi vui vẻ phấn khởi, rồi cao giọng xướng lên rằng: ‘Phật nay ở trong Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva này do bởi thương xót các chúng sanhthế gian, muốn làm cho thu hoạch được lợi lạc cho nên ba lần chuyển vận bánh xe Pháp, bánh xe Pháp ấy đầy đủ mười hai đặc điểm, tất cả Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Quỷ, Ma, Phạm đều không thể chuyển vận được pháp như vậy.

Vì Phật chuyển vận bánh xe Pháp cao tuyệt này, năm anh em Koṇḍañña đã thấy được bốn sự thật, từ nay thiên chúng dần dần được tăng ích, chúng Asura dần dần giảm xuống; từ đó tiến chuyển không ngừng, chư thiênnhân loại đều thụ hoạch được lợi íchan lạc ưu việt.

Thần Dược-xoa đang đi ở trên hư không nghe lời đó rồi, vui vẻ bố cáo với Tứ đại thiên vương, Tứ đại thiên vương cũng lại cao giọng loan truyền nhau, chỉ trong chốc lát truyền đến Phạm thiên.

Khi đó, Đại Phạm thiên vương nghe lời đó rồi, vui vẻ, kính mừng đức Phật do chuyển vận bánh xe Pháp cao tuyệt mà mang lại lợi lạc vô biên cho các loài hữu tình.

Trên đây là diễn thuyết chi tiết việc chuyển vận bánh xe Pháp, cho nên gọi là Kinh vận chuyển bánh xe Pháp.

Bấy giờ, năm vị Bí-sô và tám vạn người con của chư Thiên nghe kinh này rồi, hoan hỷ tin tưởng, thực hànhgiữ gìn.

[trích kinh văn phẩm 10- SỰ THẬT CỦA BẬC THÁNH, PHÁP UẨN TÚC LUẬN, bản việt Phước Nguyên dịch và chú thích]
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12716)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11763)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11742)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12346)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12394)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19834)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11975)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11999)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16896)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12682)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15070)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16130)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12898)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12251)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11926)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11934)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13164)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16517)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13237)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12504)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11832)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19870)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11170)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11268)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10408)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11104)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10978)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10044)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11759)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11641)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11120)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11355)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12072)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12568)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10772)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17992)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9957)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11250)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16584)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11852)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28814)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12383)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53071)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35496)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16096)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12191)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12327)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17201)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14985)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14629)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13856)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11717)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15071)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 22894)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant