Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 4: La Hầu La

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 4988)
Phẩm 4: La Hầu La

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, 
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.

 kinh-dai-bi


 Phẩm 4

LA HẦU LA

 

Lúc bấy giờ, tôn giả La Hầu La suy nghĩ rằng: Ta nay đâu có gì để vui mừng, mà cũng đâu có cam lòng nhìn thấy đức Thế Tôn nhập niết-bàn! Suy nghĩ như vậy rồi, tôn giả liền đi về hướng Đông-Bắc, trải qua mười Phật độ, đến một thế giới tên là Ma-li-chi, có đức Phật hiệu là Nan Thắng đang tại thế giáo hóa. Tôn giả đến nơi, cúi đầu đảnh lễ đức Phật, rồi đứng sang một bên, nỗi đau buồn hiện trên nét mặt. Bấy giờ đức Phật Nan Thắng bảo tôn giả La Hầu La:

“Này La Hầu La! Ông chớ nên đau buồn. Mọi sự việc, dù thích ý đến đâu, nhưng đã có hội họp thì chắc chắn phải có lìa tan; tất cả các pháp đều như vậy. Này La Hầu La! Chư Phật khi làm xong Phật sự, đều nhập niết-bàn. Hiện giờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc Ứng Cúng Chánh Biến Tri, đang nằm nghiêng về phía hông bên phải, tại rừng Ta-la-song-thọ, thuộc lãnh thổ của tộc Lực-sĩ, sau nửa đêm hôm nay sẽ nhập vô dư niết-bàn. Ông hãy mau trở về, nếu trễ tất sẽ hối hận.”

Nghe đức Phật Nan Thắng dạy như thế, tôn giả La Hầu La thưa rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Con không cam lòng nghe nói đến đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni nhập niết-bàn, huống hồ là nhìn thấy đức Như Lai nhập niết-bàn; cho nên con không thể nào trở về được!”

Tôn giả La Hầu La vừa bạch xong lời ấy lên đức Phật Nan Thắng, thì không ai nhìn thấy tôn giả ở đó nữa. Bấy giờ tôn giả đi lên phương trên, trải qua chín mươi chín thế giới, đến thế giới thứ một trăm, nơi đó có đức Phật hiệu là Thương Chủ, hiện đang tại thế giáo hóa. Tôn giả đến nơi, đảnh lễ đức Phật, rồi đứng sang một bên, đau buồn khóc lóc, nước mắt ràn rụa. Đức Phật Thương Chủ bảo tôn giả La Hầu La rằng:

“Hãy nín khóc đi, La Hầu La, đừng đau buồn nữa! Tất cả các pháp, sinh mà nếu không sinh, già mà nếu không già, bệnh mà nếu không bệnh, chết mà nếu không chết, tận diệt mà nếu không tận diệt, thì không thể có lẽ đó. Này La Hầu La! Chư Phật và các bậc Thanh-văn, Duyên-giác trong đời quá khứ, đến lúc diệt độ, xa lìa tất cả mà nhập niết-bàn. Chư Phật và các bậc Thanh-văn, Duyên-giác trong đời vị lai, đến lúc diệt độ, xa lìa tất cả mà nhập niết-bàn. Chư Phật và các bậc Thanh-văn, Duyên-giác trong đời hiện tại, đến lúc diệt độ, xa lìa tất cả mà nhập niết-bàn. Giả sử chư Phật trụ thế đến một kiếp hay trăm kiếp, chắc chắn rồi cũng nhập niết-bàn. Này La Hầu La! Chư Phật không có pháp nào khác hơn là rốt ráo tịch diệt niết-bàn. Rốt ráo tịch diệt tức là định tĩnh rốt ráo, mát mẻ rốt ráo, phiền não tận diệt rốt ráo, an vui rốt ráo, yên ổn rốt ráo. Này La Hầu La! Sinh già bệnh chết, yêu thương mà phải xa lìa, oán cừu mà phải gặp nhau, mong cầu mà không toại nguyện, năm ấm hừng hực như lửa cháy, đó toàn là những nỗi khổ lớn; chỉ có niết-bàn là an vui. Này La Hầu La! Rồi đây, không bao lâu nữa, ông cũng sẽ nhập niết-bàn! Nơi cảnh giới niết-bàn không có những điều không vừa ý; không có các nỗi khổ sinh già bệnh chết, yêu thương mà phải xa lìa, oán cừu mà phải gặp nhau, mong cầu mà không toại nguyện, năm ấm hừng hực như lửa cháy. Này La Hầu La! Ông chớ nên đau buồn! Ông hãy suy nghĩ: Cái gì sinh? Cái gì già? Cái gì chết? Cái gì lưu chuyển? Cái gì tái sinh? Này La Hầu La! Tất cả đều là hư vọng, đều là chấp trước điên đảo. Kẻ phàm phu, vì chưa được thấy các bậc Thánh, chưa được nghe thánh pháp, chưa biết thánh pháp, chưa học thánh pháp, chưa hiểu thánh pháp, chưa tin thánh pháp, chưa an trú nơi thánh pháp, cho nên tâm điên đảo, tưởng điên đảo, thấy biết điên đảo; vì điên đảo cho nên có sinh, vì có sinh cho nên có già, vì có già cho nên có chết, vì có chết cho nên có tái sinh, cứ thế mà tới lui, lưu chuyển. Này La Hầu La! Tất cả các bậc Thánh đều do thánh pháp mà dứt tuyệt mọi hành nghiệp, chứ không làm gì khác. Bậc Đạo Sư như thế, những gì nên làm đã làm xong; những gì nên làm cho chúng đệ tử Thanh-văn cũng đã làm xong; không còn gì phải làm nữa. Này La Hầu La! Ông chớ nên đau buồn! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc Pháp Vương vô thượng, bậc tôn quí trong dòng họ Thích, ông hãy trở về để kịp đảnh lễ cúng dường Ngài lần chót; nếu chậm trễ, Ngài nhập niết-bàn rồi, tất ông sẽ hối hận! Này La Hầu La! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hiện giờ đang nằm nghiêng về phía hông bên phải theo thế nằm của sư tử chúa, tại rừng Ta-la-song-thọ, thuộc lãnh thổ của dòng tộc Lực-sĩ; Ngài đang muốn thấy ông. Vậy ông hãy gấp trở về!”

Tôn giả La Hầu La bạch lên đức Phật Thương Chủ:

“Bạch đức Thế Tôn! Con không cam lòng nghe nói đến đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni nhập niết-bàn, huống hồ là nhìn thấy đức Như Lai nhập niết-bàn! Đức Như Lai Thích Ca Mâu Niđấng Pháp Vương vô thượng, là bậc tôn quí trong dòng họ Thích, là viên ngọc quí của chúng sinh, giờ đây con không cam lòng nhìn thấy Ngài nhập niết-bàn! Ngài thương xót tất cả thế gian; tất cả hình tướng trong thế gian đều không so sánh được với Ngài; Ngài làm ngọn đèn cho tất cả thế gian; Ngài làm con mắt cho tất cả thế gian; Ngài làm cây đuốc trí tuệ cho tất cả thế gian; Ngài chiếu ánh sáng rực rỡ cho tất cả thế gian; thế mà ngày mai con phải xa lìa Ngài rồi, không còn được trông thấy Ngài nữa!”

Đức Phật Thương Chủ bảo tôn giả La Hầu La:

“Thôi đi, La Hầu La, ông đừng đau buồn nữa! Lẽ nào ông chưa từng nghe đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni dạy rằng: [Các pháp là vô thường, là khổ, là vô ngã, chỉ có tịch diệt niết-bàn], hay sao? Ngài cũng đã từng nói bài kệ siêu tuyệt rằng: [Các hành là vô thường, đó là pháp sinh diệt, sinh và diệt đều diệt, tịch diệt là niềm vui.], chắc ông đã có nghe?”

Tôn giả La Hầu La thưa:

“Thưa vâng, bạch đức Thế Tôn! Con đã từng nghe.”

Đức Phật lại bảo:

“Này La Hầu La! Lẽ nào đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni lại chưa từng dạy rằng: [Tất cả những gì mình ưng ý, ưa thích, không bao lâu tất sẽ bị li tán, rốt cuộc sẽ đi đến tiêu diệt; dù cho tồn tại lâu dài đến đâu, rồi cũng phải chia lìa?]”

Tôn giả La Hầu La thưa:

“Thưa vâng, bạch đức Thế Tôn! Đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni đã từng dạy như thế.”

Đức Phật lại bảo:

“Các pháp hữu vi, các pháp sinh, các pháp có, các pháp hiểu biết, các pháp phân biệt, đều do nhân duyên mà khởi sinh, nếu không hoại diệt thì không có lẽ đó.”

Lúc bấy giờ, tôn giả La Hầu La nghĩ nhớ tới đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chảy nước mắt mà bạch lên đức Phật Thương Chủ rằng:

“Từ ngày mai con không còn được trông thấy đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni ngồi nói pháp với chúng tì-kheo ngồi chung quanh, như núi Tu-di ở giữa biển lớn, như mặt trăng tròn đầy ở giữa các vì sao, như vua chuyển luân với vô lượng quyến thuộc vây quanh; các tướng trang nghiêm phát ra ánh sáng, như ánh sáng của ngàn mặt trời chiếu rực rỡ trên không trung, như biển sâu chứa vô lượng châu báu. Đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni như thế đó, tất cả những lời nghị luận của các vị luận sư ngoại đạo đều không lung lay được, như những cơn gió dữ đều không thể lay động được núi Thiết-vi. Ngài không bị các pháp thế gian làm cho ô nhiễm, như hoa sen ở trong ao. Ngài như vị Đại Phạm Thiên Vương có đầy đủ chúng Phạm Thiên làm quyến thuộc; như trời Đế Thích có ngàn con mắt; như sư tử chúa ngồi trên tòa sư tử không chút gì kinh sợ; Ngài xa lìa hết mọi sợ sệt mà gầm tiếng gầm sư tử. Đức Như Lai như thế đó, mà ngày mai đây con không còn trông thấy nữa rồi!”

Tôn giả La Hầu La bạch Phật xong thì đứng yên lặng, mặt đầm đìa nước mắt. Đức Phật Thương Chủ lại bảo:

“Này La Hầu La! Ông nên gấp trở về với đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Ngài đang muốn nhìn thấy ông. Ông đừng kéo dài thêm thì giờ, đức Thế Tôn đang dùng tâm từ bi, muốn nhìn thấy ông trước khi Ngài nhập niết-bàn!”

Tôn giả La Hầu La liền cúi đầu đảnh lễ đức Phật Thương Chủ, rồi chỉ trong khoảnh khắc bằng thời gian người tráng sĩ duỗi cánh tay, tôn giả đã rời khỏi thế giới của đức Phật Thương Chủ mà về đến rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ. Tôn giả đảnh lễ sát chân đức Phật, đi nhiễu ba vòng, rồi chắp tay đứng một bên, ưu sầu áo não, nước mắt đầm đìa. Đức Phật bảo:

“Này La Hầu La! Thầy chớ nên buồn rầu khóc lóc! Những gì cần làm cho một người cha, thầy đã làm xong rồi; những gì cần làm cho một người con, Như Lai cũng đã làm xong rồi. Thầy đừng để tâm lưu luyến rồi sinh ra ưu sầu. La Hầu La! Như Lai và thầy đều vì muốn cho tất cả chúng sinh có được tâm vô úy, cho nên đã phát tâm chuyên cần tinh tấn; vì không gây oán cừu, không làm não hại, cho nên phát tâm chuyên cần tinh tấn. La Hầu La! Hôm nay Như Lai nhập niết-bàn rồi thì không còn làm cha của ai nữa; thầy rồi cũng sẽ nhập niết-bàn, và không còn làm con của ai nữa. Như Lai và thầy cùng có đủ hai đặc điểm này: không gây não loạn và không gây oán cừu.”

Tôn giả La Hầu La bạch Phật:

“Cúi xin đức Thế Tôn đừng nhập niết-bàn! Cúi xin đức Thế Tôn thương xót thế gian, trụ thế một kiếp, để cho hàng trời người được thêm lợi ích an lạc, thêm nhiều chúng sinh được an ổn.”

Đức Phật dạy:

“Này La Hầu La! Như LaiChánh Biến Tri, biết rõ tường tận tất cả các pháp, ở trong thế gian được gọi là Phật. Này La Hầu La! Phật pháp không sinh không diệt, không đến không đi, không thành không hoại, không ngồi không nằm, không hợp không tan, vì sao vậy? Này La Hầu La! Pháp an trụ như thế, rốt ráo không sinh, rốt ráo không diệt, rốt ráo không, rốt ráo không tự tánh, tịch diệt niết-bàn, không thể dùng ngôn ngữ để diễn bày; Như Lai nói pháp chỉtùy nghi mà thôi. Chư Phật dù ra đời hay không ra đời, các pháp vẫn an trụ như thế; các pháp là như pháp vậy. Vì thế, này La Hầu La! Như lai không mang theo Giới mà nhập niết-bàn, không mang theo Định, Tuệ, Giải thoátGiải thoát tri kiến mà nhập niết-bàn. Này La Hầu La! Thầy đừng đau buồn, đừng quyến luyến! Tất cả các hành đều vô thường, không nhất định, luôn luôn biến đổi, không có gì đáng mong cầu. Thầy hãy nhàm chán tất cả, buông bỏ tất cả; chỉ mong cầu quả Giải Thoát mà thôi! Này La Hầu La, đó là lời dạy của Như Lai!”

Những lời dạy như trên của đức Phật nhằm đưa tôn giả La Hầu La trở về với cái thấy chân thật; đồng thời cũng giúp cho sáu mươi vị tì-kheo và hai mươi lăm vị tì-kheo-ni trong hội chúng dứt hết các lậu hoặc, tâm được giải thoát; vô số trời người cũng nhờ đó mà xa lìa được trần cấu, đạt được pháp nhãn thanh tịnh; sáu vạn tám ngàn chư vị Bồ-tát chứng được vô sinh pháp nhẫn. Tất cả hội chúng đều hân hoan vui mừng, tán thán rằng: “Phật pháp không thể nghĩ bàn!” Các vị Bồ-tát dùng hoa sen đủ màu rải trên người đức Phật, và đều phát nguyện rằng: “Trong đời vị lai chúng con cũng sẽ ra đời làm bậc Thầy của trời người; cũng nói pháp niết-bàn vô tướng là pháp vô thượng của thế gian; cũng bằng tâm đại niết-bàn mà nhập niết-bàn.” Các vị Bồ-tát nói xong, đều đứng yên lặng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13315)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 18004)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12535)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 54307)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14494)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 13886)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58172)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 13372)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11965)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 14723)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12199)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 13718)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13390)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 12235)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 11916)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42150)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 38908)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14790)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12780)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16091)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14516)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 13762)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 16465)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13205)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12974)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 14253)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14184)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16560)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12429)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14434)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11393)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11095)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13248)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13943)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13226)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13063)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13558)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 13706)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33729)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11398)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12992)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13133)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11693)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17954)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11495)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11927)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11583)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19045)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12635)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11423)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13222)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15845)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11906)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11777)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12879)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12725)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14022)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13040)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 13007)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13365)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant