Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 4: La Hầu La

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 4990)
Phẩm 4: La Hầu La

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, 
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.

 kinh-dai-bi


 Phẩm 4

LA HẦU LA

 

Lúc bấy giờ, tôn giả La Hầu La suy nghĩ rằng: Ta nay đâu có gì để vui mừng, mà cũng đâu có cam lòng nhìn thấy đức Thế Tôn nhập niết-bàn! Suy nghĩ như vậy rồi, tôn giả liền đi về hướng Đông-Bắc, trải qua mười Phật độ, đến một thế giới tên là Ma-li-chi, có đức Phật hiệu là Nan Thắng đang tại thế giáo hóa. Tôn giả đến nơi, cúi đầu đảnh lễ đức Phật, rồi đứng sang một bên, nỗi đau buồn hiện trên nét mặt. Bấy giờ đức Phật Nan Thắng bảo tôn giả La Hầu La:

“Này La Hầu La! Ông chớ nên đau buồn. Mọi sự việc, dù thích ý đến đâu, nhưng đã có hội họp thì chắc chắn phải có lìa tan; tất cả các pháp đều như vậy. Này La Hầu La! Chư Phật khi làm xong Phật sự, đều nhập niết-bàn. Hiện giờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc Ứng Cúng Chánh Biến Tri, đang nằm nghiêng về phía hông bên phải, tại rừng Ta-la-song-thọ, thuộc lãnh thổ của tộc Lực-sĩ, sau nửa đêm hôm nay sẽ nhập vô dư niết-bàn. Ông hãy mau trở về, nếu trễ tất sẽ hối hận.”

Nghe đức Phật Nan Thắng dạy như thế, tôn giả La Hầu La thưa rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Con không cam lòng nghe nói đến đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni nhập niết-bàn, huống hồ là nhìn thấy đức Như Lai nhập niết-bàn; cho nên con không thể nào trở về được!”

Tôn giả La Hầu La vừa bạch xong lời ấy lên đức Phật Nan Thắng, thì không ai nhìn thấy tôn giả ở đó nữa. Bấy giờ tôn giả đi lên phương trên, trải qua chín mươi chín thế giới, đến thế giới thứ một trăm, nơi đó có đức Phật hiệu là Thương Chủ, hiện đang tại thế giáo hóa. Tôn giả đến nơi, đảnh lễ đức Phật, rồi đứng sang một bên, đau buồn khóc lóc, nước mắt ràn rụa. Đức Phật Thương Chủ bảo tôn giả La Hầu La rằng:

“Hãy nín khóc đi, La Hầu La, đừng đau buồn nữa! Tất cả các pháp, sinh mà nếu không sinh, già mà nếu không già, bệnh mà nếu không bệnh, chết mà nếu không chết, tận diệt mà nếu không tận diệt, thì không thể có lẽ đó. Này La Hầu La! Chư Phật và các bậc Thanh-văn, Duyên-giác trong đời quá khứ, đến lúc diệt độ, xa lìa tất cả mà nhập niết-bàn. Chư Phật và các bậc Thanh-văn, Duyên-giác trong đời vị lai, đến lúc diệt độ, xa lìa tất cả mà nhập niết-bàn. Chư Phật và các bậc Thanh-văn, Duyên-giác trong đời hiện tại, đến lúc diệt độ, xa lìa tất cả mà nhập niết-bàn. Giả sử chư Phật trụ thế đến một kiếp hay trăm kiếp, chắc chắn rồi cũng nhập niết-bàn. Này La Hầu La! Chư Phật không có pháp nào khác hơn là rốt ráo tịch diệt niết-bàn. Rốt ráo tịch diệt tức là định tĩnh rốt ráo, mát mẻ rốt ráo, phiền não tận diệt rốt ráo, an vui rốt ráo, yên ổn rốt ráo. Này La Hầu La! Sinh già bệnh chết, yêu thương mà phải xa lìa, oán cừu mà phải gặp nhau, mong cầu mà không toại nguyện, năm ấm hừng hực như lửa cháy, đó toàn là những nỗi khổ lớn; chỉ có niết-bàn là an vui. Này La Hầu La! Rồi đây, không bao lâu nữa, ông cũng sẽ nhập niết-bàn! Nơi cảnh giới niết-bàn không có những điều không vừa ý; không có các nỗi khổ sinh già bệnh chết, yêu thương mà phải xa lìa, oán cừu mà phải gặp nhau, mong cầu mà không toại nguyện, năm ấm hừng hực như lửa cháy. Này La Hầu La! Ông chớ nên đau buồn! Ông hãy suy nghĩ: Cái gì sinh? Cái gì già? Cái gì chết? Cái gì lưu chuyển? Cái gì tái sinh? Này La Hầu La! Tất cả đều là hư vọng, đều là chấp trước điên đảo. Kẻ phàm phu, vì chưa được thấy các bậc Thánh, chưa được nghe thánh pháp, chưa biết thánh pháp, chưa học thánh pháp, chưa hiểu thánh pháp, chưa tin thánh pháp, chưa an trú nơi thánh pháp, cho nên tâm điên đảo, tưởng điên đảo, thấy biết điên đảo; vì điên đảo cho nên có sinh, vì có sinh cho nên có già, vì có già cho nên có chết, vì có chết cho nên có tái sinh, cứ thế mà tới lui, lưu chuyển. Này La Hầu La! Tất cả các bậc Thánh đều do thánh pháp mà dứt tuyệt mọi hành nghiệp, chứ không làm gì khác. Bậc Đạo Sư như thế, những gì nên làm đã làm xong; những gì nên làm cho chúng đệ tử Thanh-văn cũng đã làm xong; không còn gì phải làm nữa. Này La Hầu La! Ông chớ nên đau buồn! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc Pháp Vương vô thượng, bậc tôn quí trong dòng họ Thích, ông hãy trở về để kịp đảnh lễ cúng dường Ngài lần chót; nếu chậm trễ, Ngài nhập niết-bàn rồi, tất ông sẽ hối hận! Này La Hầu La! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hiện giờ đang nằm nghiêng về phía hông bên phải theo thế nằm của sư tử chúa, tại rừng Ta-la-song-thọ, thuộc lãnh thổ của dòng tộc Lực-sĩ; Ngài đang muốn thấy ông. Vậy ông hãy gấp trở về!”

Tôn giả La Hầu La bạch lên đức Phật Thương Chủ:

“Bạch đức Thế Tôn! Con không cam lòng nghe nói đến đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni nhập niết-bàn, huống hồ là nhìn thấy đức Như Lai nhập niết-bàn! Đức Như Lai Thích Ca Mâu Niđấng Pháp Vương vô thượng, là bậc tôn quí trong dòng họ Thích, là viên ngọc quí của chúng sinh, giờ đây con không cam lòng nhìn thấy Ngài nhập niết-bàn! Ngài thương xót tất cả thế gian; tất cả hình tướng trong thế gian đều không so sánh được với Ngài; Ngài làm ngọn đèn cho tất cả thế gian; Ngài làm con mắt cho tất cả thế gian; Ngài làm cây đuốc trí tuệ cho tất cả thế gian; Ngài chiếu ánh sáng rực rỡ cho tất cả thế gian; thế mà ngày mai con phải xa lìa Ngài rồi, không còn được trông thấy Ngài nữa!”

Đức Phật Thương Chủ bảo tôn giả La Hầu La:

“Thôi đi, La Hầu La, ông đừng đau buồn nữa! Lẽ nào ông chưa từng nghe đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni dạy rằng: [Các pháp là vô thường, là khổ, là vô ngã, chỉ có tịch diệt niết-bàn], hay sao? Ngài cũng đã từng nói bài kệ siêu tuyệt rằng: [Các hành là vô thường, đó là pháp sinh diệt, sinh và diệt đều diệt, tịch diệt là niềm vui.], chắc ông đã có nghe?”

Tôn giả La Hầu La thưa:

“Thưa vâng, bạch đức Thế Tôn! Con đã từng nghe.”

Đức Phật lại bảo:

“Này La Hầu La! Lẽ nào đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni lại chưa từng dạy rằng: [Tất cả những gì mình ưng ý, ưa thích, không bao lâu tất sẽ bị li tán, rốt cuộc sẽ đi đến tiêu diệt; dù cho tồn tại lâu dài đến đâu, rồi cũng phải chia lìa?]”

Tôn giả La Hầu La thưa:

“Thưa vâng, bạch đức Thế Tôn! Đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni đã từng dạy như thế.”

Đức Phật lại bảo:

“Các pháp hữu vi, các pháp sinh, các pháp có, các pháp hiểu biết, các pháp phân biệt, đều do nhân duyên mà khởi sinh, nếu không hoại diệt thì không có lẽ đó.”

Lúc bấy giờ, tôn giả La Hầu La nghĩ nhớ tới đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chảy nước mắt mà bạch lên đức Phật Thương Chủ rằng:

“Từ ngày mai con không còn được trông thấy đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni ngồi nói pháp với chúng tì-kheo ngồi chung quanh, như núi Tu-di ở giữa biển lớn, như mặt trăng tròn đầy ở giữa các vì sao, như vua chuyển luân với vô lượng quyến thuộc vây quanh; các tướng trang nghiêm phát ra ánh sáng, như ánh sáng của ngàn mặt trời chiếu rực rỡ trên không trung, như biển sâu chứa vô lượng châu báu. Đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni như thế đó, tất cả những lời nghị luận của các vị luận sư ngoại đạo đều không lung lay được, như những cơn gió dữ đều không thể lay động được núi Thiết-vi. Ngài không bị các pháp thế gian làm cho ô nhiễm, như hoa sen ở trong ao. Ngài như vị Đại Phạm Thiên Vương có đầy đủ chúng Phạm Thiên làm quyến thuộc; như trời Đế Thích có ngàn con mắt; như sư tử chúa ngồi trên tòa sư tử không chút gì kinh sợ; Ngài xa lìa hết mọi sợ sệt mà gầm tiếng gầm sư tử. Đức Như Lai như thế đó, mà ngày mai đây con không còn trông thấy nữa rồi!”

Tôn giả La Hầu La bạch Phật xong thì đứng yên lặng, mặt đầm đìa nước mắt. Đức Phật Thương Chủ lại bảo:

“Này La Hầu La! Ông nên gấp trở về với đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Ngài đang muốn nhìn thấy ông. Ông đừng kéo dài thêm thì giờ, đức Thế Tôn đang dùng tâm từ bi, muốn nhìn thấy ông trước khi Ngài nhập niết-bàn!”

Tôn giả La Hầu La liền cúi đầu đảnh lễ đức Phật Thương Chủ, rồi chỉ trong khoảnh khắc bằng thời gian người tráng sĩ duỗi cánh tay, tôn giả đã rời khỏi thế giới của đức Phật Thương Chủ mà về đến rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ. Tôn giả đảnh lễ sát chân đức Phật, đi nhiễu ba vòng, rồi chắp tay đứng một bên, ưu sầu áo não, nước mắt đầm đìa. Đức Phật bảo:

“Này La Hầu La! Thầy chớ nên buồn rầu khóc lóc! Những gì cần làm cho một người cha, thầy đã làm xong rồi; những gì cần làm cho một người con, Như Lai cũng đã làm xong rồi. Thầy đừng để tâm lưu luyến rồi sinh ra ưu sầu. La Hầu La! Như Lai và thầy đều vì muốn cho tất cả chúng sinh có được tâm vô úy, cho nên đã phát tâm chuyên cần tinh tấn; vì không gây oán cừu, không làm não hại, cho nên phát tâm chuyên cần tinh tấn. La Hầu La! Hôm nay Như Lai nhập niết-bàn rồi thì không còn làm cha của ai nữa; thầy rồi cũng sẽ nhập niết-bàn, và không còn làm con của ai nữa. Như Lai và thầy cùng có đủ hai đặc điểm này: không gây não loạn và không gây oán cừu.”

Tôn giả La Hầu La bạch Phật:

“Cúi xin đức Thế Tôn đừng nhập niết-bàn! Cúi xin đức Thế Tôn thương xót thế gian, trụ thế một kiếp, để cho hàng trời người được thêm lợi ích an lạc, thêm nhiều chúng sinh được an ổn.”

Đức Phật dạy:

“Này La Hầu La! Như LaiChánh Biến Tri, biết rõ tường tận tất cả các pháp, ở trong thế gian được gọi là Phật. Này La Hầu La! Phật pháp không sinh không diệt, không đến không đi, không thành không hoại, không ngồi không nằm, không hợp không tan, vì sao vậy? Này La Hầu La! Pháp an trụ như thế, rốt ráo không sinh, rốt ráo không diệt, rốt ráo không, rốt ráo không tự tánh, tịch diệt niết-bàn, không thể dùng ngôn ngữ để diễn bày; Như Lai nói pháp chỉtùy nghi mà thôi. Chư Phật dù ra đời hay không ra đời, các pháp vẫn an trụ như thế; các pháp là như pháp vậy. Vì thế, này La Hầu La! Như lai không mang theo Giới mà nhập niết-bàn, không mang theo Định, Tuệ, Giải thoátGiải thoát tri kiến mà nhập niết-bàn. Này La Hầu La! Thầy đừng đau buồn, đừng quyến luyến! Tất cả các hành đều vô thường, không nhất định, luôn luôn biến đổi, không có gì đáng mong cầu. Thầy hãy nhàm chán tất cả, buông bỏ tất cả; chỉ mong cầu quả Giải Thoát mà thôi! Này La Hầu La, đó là lời dạy của Như Lai!”

Những lời dạy như trên của đức Phật nhằm đưa tôn giả La Hầu La trở về với cái thấy chân thật; đồng thời cũng giúp cho sáu mươi vị tì-kheo và hai mươi lăm vị tì-kheo-ni trong hội chúng dứt hết các lậu hoặc, tâm được giải thoát; vô số trời người cũng nhờ đó mà xa lìa được trần cấu, đạt được pháp nhãn thanh tịnh; sáu vạn tám ngàn chư vị Bồ-tát chứng được vô sinh pháp nhẫn. Tất cả hội chúng đều hân hoan vui mừng, tán thán rằng: “Phật pháp không thể nghĩ bàn!” Các vị Bồ-tát dùng hoa sen đủ màu rải trên người đức Phật, và đều phát nguyện rằng: “Trong đời vị lai chúng con cũng sẽ ra đời làm bậc Thầy của trời người; cũng nói pháp niết-bàn vô tướng là pháp vô thượng của thế gian; cũng bằng tâm đại niết-bàn mà nhập niết-bàn.” Các vị Bồ-tát nói xong, đều đứng yên lặng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22951)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 11723)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 19239)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 24104)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 13325)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13074)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12963)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13092)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 14416)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105907)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14666)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19879)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38514)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 14131)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12908)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13797)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12606)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19481)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27111)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13560)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21708)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 18044)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 14297)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16176)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15140)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 14258)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13233)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14489)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19826)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16773)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 21199)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14829)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39214)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 19440)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14766)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16185)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14750)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15257)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14960)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15597)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39216)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14175)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24573)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14431)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19502)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18073)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21516)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19725)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17556)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14890)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13933)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13805)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14155)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21949)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16774)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15268)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14588)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14103)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14391)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant