Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Hoa Kinh Thâm Nghĩa Đề Cương

19 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 23846)
Pháp Hoa Kinh Thâm Nghĩa Đề Cương

PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
Hoà thượng Thích Từ Thông
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

MỤC LỤC
blankDuyên khởi tự 
Tiểu dẫn
Phẩm 1 - Tựa 
Phẩm 2 - Phương tiện 
Phẩm 3 - Thí du
Phẩm 4 - Tin giải
Phẩm 5 - Dược thảo dụ
Phẩm 6 - Thọ ký
Phẩm 7 - Hóa thành dụ
Phẩm 8 - Ngũ bách đệ tử thọ ký 
Phẩm 9 - Thọ học vô học nhơn ký
Phẩm 10 - Pháp sư
Phẩm 11 - Hiện bảo tháp
Phẩm 12 - Đề bà đạt đa
Phẩm 13 - Khuyến trì
Phẩm 14 - An lạc hạnh
Phẩm 15 - Tùng địa dũng xuất
Phẩm 16 - Như Lai thọ lượng 
Phẩm 17 - Phân biệt công đức
Phẩm 18 - Tùy hỉ công đức
Phẩm 19 - Pháp sư công đức
Phẩm 20 - Thường Bất Khinh Bồ tát 
Phẩm 21 - Như Lai thần lực
Phẩm 22 - Chúc lụy
Phẩm 23 - Dược Vương Bồ tát bổn sự
Phẩm 24 - Diệu Âm Bồ tát vãng lai
Phẩm 25 - Quán Thế Âm Bồ tát phổ môn
Phẩm 26 - Đà la ni
Phẩm 27 - Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn sự
Phẩm 28 - Phổ Hiền, Bồ tát khuyến phát

Duyên Khởi Tự

Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh là một bộ kinh được lưu truyền sâu rộng ở các nước Phật giáo theo hệ tư tưởng Đại Thừa. Ở Trung Quốc, vào thời Diêu Tần khoảng cuối thế kỷ thứ ba, Ngài Cưu-ma-la-thập, là một nhà sư người Ấn dịch từ Phạn-văn ra Hán-văn với nhan đề Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Sư Quách Hoàng, sư Trúc Pháp Hộ dịch nhan đề là Chánh Pháp Hoa Kinh. Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật BảnViệt Nam những nước cùng một khuynh hướng ái-mộ tư-tưởng Đại Thừa đều tôn trọng bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập. Ở Việt Nam khắp tòng lâm, tự viện, am thất chỗ nào không có kinh Pháp Hoa gần như chỗ đó được xem như thiếu Phật. Xem thế đủ biết “diệu lực” của Kinh Pháp Hoa, đức tin của người Phật-tử đối với Kinh Pháp Hoa thâm hậu biết chừng nào!

Việt Nam ta có hai bản dịch từ Hán-văn ra Việt-văn sớm nhất. Bản dịch của ông Đoàn Trung Còn xuất bản vào năm 1936. Bản dịch nầy, ở vào thời đại bấy giờ kinh Pháp Hoa chưa được phổ biến nhiều. Đến năm 1948 bản dịch của Hoà Thượng Thích Trí Tịnh ra đời, do Liên Hải Phật Học Đường xuất bản, có lẽ do thiên-thời, địa-lợi, nhơn-hoà, vì mầm chấn hưng Phật-giáo được manh nha từ thời điểm ấy cho nên bản dịch của Hoà Thượng Thích Trí Tịnh được phổ biến rộng, tái bản nhiều lần và truyền bá, thọ trì, đọc tụng hầu khắp tự viện, tòng lâm cho đến ngày nay.

Vấn đề: Vì sao đồng bào Phật-tử ham tụng Kinh Pháp Hoa? Có sự linh nghiệm, cảm ứng thế nào? Tôi xin phép miễn bàn về mặt đó.

Riêng tôi xin dâng hết tâm thành lên đức Phật, mà khắng định rằng: “ Tụng kinh giả, minh Phật chi lý” nghĩa là: Đọc kinh cốt để tìm hiểu giáo lý đức Phật muốn dạy gì cho mình.

Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, người có chủng-tánh Đại-thừa, có được ít nhiều tuệ-nhãn, nhìn vào như hạt ngọc kim cương. Tùy góc đứng khác nhau mà ngọc kim cương ảnh hiện màu sắc khác nhau, nhưng màu sắc nào cũng đều rực rỡ. Tùy khả năng tư duy tu của hành giảnhận thức cái “diệu nghĩa” của kinh một khác. Bởi lẽ đó, kinh Diệu Pháp Liên Hoa xuất hiệnTrung Quốc cũng như ở Việt Nam đến nay đã ngót hai ngàn năm mà sức sống ngày càng mạnh và rộng. Các tiền bối trong Phật giáo đã đầu tư trí tuệ, ra sức phát huy cái “diệu nghĩa”, “huyền nghĩa”, “thông nghĩa”, “mật nghĩa” của kinh Diệu Pháp Liên Hoa mà hình như chưa có vị nào có thể cho là mình bằng lòng trọn vẹn. Bởi Kinh Pháp Hoa là kinh: “Duy hữu Phật dữ Phật cãi năng tri chi” (chỉ có Phật với Phật mới hiểu hết diệu lý của kinh). Tuy nhiên, mỗi ngài đều có cái tâm đắc, cái tuệ nhãn riêng để nhận thức tương đương với sự thâm ngộ và thể nhập của mình. Mỗi ngài viết ra thành tác phẩm giữ lại thành tài liệu nhằm ghi lại cái kết quả đó. Còn vấn đề đem lại lợi lạc ít hay nhiều cho tăng tín đồ Phật giáo, thì còn tùy thuộc nhân duyên, căn cơchủng tánh nữa.

Nhìn lịch sử nghiên cứu sớ thích giảng giải kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đã thấy trong quá khứ:

Pháp Hoa Văn Cú của Thiên Thai Trí Giả Đại Sư
Pháp Hoa Nghĩa Sớ của Sa-môn Cát Tạng
Pháp Hoa Du Ý của ngài Khuy Cơ
Pháp Hoa Huyền Tán của ngài Nguyên Hiểu
Pháp Hoa Tông Yếu của ngài Minh Chánh
Pháp Hoa Huyền Nghĩa của Cư-sĩ Chánh Trí

Và sinh tiền:

Pháp Hoa Cương Yếu của Hoà Thượng Thích Trí Tịnh

Nhìn chung, sự nhận thứctriển khai của các Ngài, mỗi người một vẻ, vẻ nào cũng có cái hay cái diệu riêng của nó.

Tôi, một hậu học là một bần-tăng cô-lậu, có chút ít quá trình lạm dụng bút nghiêng vận dụng cái vốn của những bậc Thầy tôn kính của tôi: Hoà-thượng Thựơng Trí Hạ Tịnh, Hòa-thượng Thượng Thiện Hạ Hoà, Hoà Thượng Thượng Thiện Hạ Hoa … đã dày công uốn nắn giáo dục tôi và truyền thọ cho tôi phần gia bảo vô giá mà các ngài đã thừa kế sự nghiệp Như Lai để lại.

Tâm đắc nguồn tư-tưởng liễu-nghĩa Thượng thừa trác tuyệt của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, theo sở ngộ của mình tôi viết ra những tinh-hoa thâm-nghĩa ở sau mỗi phẩm của kinh văn đã được tóm lược và đặt cho giáo-án này cái nhan-đề: PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG.

Gọi là “giáo án” hay “giáo trình” cũng vậy, vì những kinh luận tôi biên soạn để triển khai, giảng dạy cho những người hậu học chớ không nhằm phục vụ cho tụng đọc cho nguyện cầu để được phước. Bởi vì, theo lời Phật dạy, người được phước phải là người chế ngự được những thói hư tật xấu, những bất-thiện-nghiệp của thân, khẩu, ý của mình.

Ngoài lý tưởng thiêng liêng đó, tôi hy vọng đền đáp phần nào công ơn của những bậc thầy tôn kính của tôi, đã lao tâm khổ trí đào tạo ra tôi. Tôi xúc động bùi ngùi khi ôn lại lời nhắc nhở, thiết-tha của tổ Qui Sơn: 

“Nhược hữu trung lưu chi sĩ, vị năng đốn siêu, thả ư giáo pháp lưu tâm, ôn tầm bối diệp, tinh sưu nghĩa lý truyền xướng phu dương, tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức. Thời quang diệc bất hư khí, tất tu dĩ thử phò trì, trụ chỉ oai nghi, tiện thị tăng trung pháp khí. Khởi bất kiến ỷ tòng chi cát, thượng tủng thiên tầm, phụ thác thắng nhơn phương năng quảng ích”. Có nghĩa là: Nếu mình chưa phải là bậc thượng lưu, vượt thắng bên kia bờ giác thì hãy để tâm nơi giáo-pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh-hoa, truyền bá tuyên dương, tiếp dẫn hậu lai, đó là cách trả ơn cho Phật tổ. Ngày giờ không nên bỏ luống, phải sử dụng nó trong việc rèn luyện thân-tâm. Khi đi cũng như lúc ở, sống đúng oai nghi để làm kho tàng đựng pháp trong chư tăng, há chẳng thấy dây sắn nương quấn cội tòng, nhờ có thắng duyên mà lên cao được đó sao?

Âm vang của Tổ giục-giã tôi tinh-tấn làm cái việc tuy nhẹ bổng mà đòi hỏi nội lực khá nặng-nề nầy.

 
Viết tại HUỲNH MAI TỊNH THẤT

Mùa Xuân năm Giáp Tý 1984. DL

Pháp-sư: THÍCH TỪ THÔNG

Kính đề


 PHÀM LỆ

Đọc Pháp Hoa Kinh Thâm Nghĩa Đề Cương kính mong độc giả lưu ý hai điểm sau đây:

1.Phần nguyên văn kinh được in chữ đứng, đó là phần dịch lược từ kinh Hán tự ra Việt văn.

2.Phần thâm nghĩa in chữ nghiêng để cho dể dàng phân biệt. Phần này do bỉ-nhân tôi đóng góp viết ra những điều tâm đắc bằng kiến giải của riêng mình. Hy vọng phần thâm nghĩa sẽ giúp cho độc giả manh mối để tư duy, gợi trí nhận xét trong tiến trình hiểu học tu theo con đường Phật.

Mấy lời kính cáo, mong độc giả lưu tâm.

Pháp sư: THÍCH TỪ THÔNG

Cẩn bạch


TIỂU DẪN

Bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được gọi với cái tên giản lược là kinh Pháp Hoa. Để phân biệt với các kinh thuộc hệ tư tưởng Tiểu Thừa, gọi là Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.

Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanhmọi người thường không hay không biết. Cái Tri Kiến Phật ấy lúc thành Phật không phải nó mới sanh ra, lúc còn là phàm-phu nó tiềm tàng, ẩn-mật mà không hề sút giảm hao bớt tí nào. Trên bình diện Tri Kiến Phật, chúng-sanh và Phật, không hề có sự hơn kém thấp cao.

Với Phật-nhãn, nhìn qua lăng kính Bát-nhã Ba-la-mật thì “Tâm, Phật và chúng sanh” dù tên gọi có ba, mà thực chất không có phạm trù đơn vị riêng rẽ.

Cái ví dụ Liên Hoa, đức Phật vận dụng để chỉ bày một cách kín-đáo, về Phật chất, về khả năng thành Phật của mọi người. Rằng hoa sen nở toàn diện, hoa sen nở 70, 80 phần trăm; hoa sen vừa trồi lên khỏi nước; hoa sen đang trong nước; cho đến hoa sen còn lủi dưới bùn, dù mức độ lớn nhỏ khác nhau, thời gian sanh trưởng không đồng mà cái tánh đặc thù của hoa thì y nhau không hề sai khác; Gương, hạt ở ngay trong cánh nhụy và cánh nhụy bao trùm lấy gương hạt. Mượn đức tánh nầy, đức Phật “giới thiệu” cho mọi chúng sanh biết, rằng trong cái “nhân phàm phu” của các vị, còn có cái “quả Phật chất” ở ngay trong các vị, các vị chớ có khinh mình.

Hoa sen từ bùn nhơ nước đục mà ngoi lên, nhưng không vì nước đục bùn nhơ mà khiến cho hoa sen phải nhạt sắc hương thanh-thoát của nó. Với đặc-tánh đó, đức Phật chỉ dạy: “Hỡi tất cả chúng-sanh, các vị hãy vươn lên, tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Các vị hoàn toàn đủ tiêu-chuẩn thành Phật, dù các vị đang ở trong hoàn cảnh “Ngũ trược ác thế” của cõi nước đục “Ta bà”…

Phật chỉ là một hoa sen nở trước, nở toàn diện, hiển bày cánh, nhụy, gương, hạt một cách viên mãn, vậy thôi. Phàm Phu, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-Tát đều là sen tất cả. Tất cả chúng-sanh không nên tự khinh mình! Trong các vị, ai ai cũng đều sẵn có Tri Kiến Phật.

Cái “Đại sự nhân duyên” xuất thế của Như Lai nhằm:

· Giới thiệu Tri Kiến Phật cho chúng sanh.
· Chỉ rõ Tri Kiến Phật của chúng sanh cho chúng sanh biết.
· Hướng dẫn chúng sanh hiểu kỹ về Tri Kiến Phật của mình
· Động viên chúng sanh sống đúng và sống hợp với Tri Kiến Phật mà mình vốn có.

Do vậy, tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật, tất cả chúng sanh sẽ thành Phật. Và tư tưởng “thuần viên độc diệu” của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đức Thế Tôn ta với âm giọng hải triều tuyên bố”

“Tất cả chúng sanh đã thành phật”

Pháp-sư THÍCH TỪ THÔNG

Khể thủ
Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8327)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
(Xem: 7602)
Lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa?
(Xem: 8639)
Hai chữ “Sinh Tử” đã khiến cho biết bao nhiêu người bất kể trí ngu giàu nghèo từ xưa đến nay đều phải lưu ý tới và khổ tâm vì nó.
(Xem: 7171)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ”[1], tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp.
(Xem: 8460)
Đối với Phật giáo mỗi người làm chủ lấy vận mạng của chính mình. Mỗi chúng ta đều mang trong mình một tiềm năng ngang nhau...
(Xem: 7749)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta
(Xem: 7027)
Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tố là tathā và Agata hoặc tathā và gata.
(Xem: 8235)
TA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được.
(Xem: 9271)
Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta thường thấy câu thành ngữ “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”.
(Xem: 7960)
Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.
(Xem: 8441)
“Bạn có nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày nữa của đời mình chăng? Thật ra hôm nay không phải chỉ là ‘một ngày nữa’ thôi, mà nó là một ngày được riêng dâng tặng cho bạn.
(Xem: 8087)
Phật dạy chúng ta hãy đem chánh niệm vào tất cả những việc mình làm trong đời sống hằng ngày. Ngài không bỏ ra ngoài bất cứ một việc làm nhỏ nhặt nào hết...
(Xem: 9650)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 6803)
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình…
(Xem: 6843)
Đức Phậtlòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
(Xem: 7064)
Hộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật.
(Xem: 6696)
Tăng quan luận (僧官論) là một trong những bộ luận do ngài Thích Ngạn Tông (557-610)1 trước tác, nhằm thuyết minh và lý giải các chức vụ do chư Tăng đảm nhiệm (廣明僧職)
(Xem: 7227)
Chưa có tài liệu nào về niên đại của đức Phật lịch sử, vị sáng lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
(Xem: 6872)
Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụhiện thân của Ngài.
(Xem: 16317)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 7570)
Con đường Bồ tátcon đường lý tưởng nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa – không phải là pháp tu để thành thánh, thành tiên, mà là một lối sống ai cũng có thể ước mong thành tựu được.
(Xem: 6513)
Sau kiến đạo, các pháp hữu lậu không thuộc kiến sở đoạn (darśana-prahātavya). Tức các pháp hữu lậu còn lại, trừ kiến chấp ô nhiễm khởi lên do tà phân biệt.
(Xem: 6973)
Đa số người xưng là Phật tử mà không biết rõ đường lối tu hành, ai bày sao làm vậy, trở thành mê tín sai lầm, khiến người đời phê bình đạo Phật là huyền hoặc, là vô ích.
(Xem: 7296)
Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất.
(Xem: 6379)
Tánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó...
(Xem: 6748)
Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng.
(Xem: 5607)
Người Phật tử chân chính chớ nên dòm ngó lỗi người, chúng ta chỉ nên nhìn lại hành động của mình, xem đã làm được điều gì tốt đẹp hay chưa.
(Xem: 8937)
"Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác.
(Xem: 7425)
Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu mình chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác thì hãy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương tiếp dẫn hậu lai, trả ơn đức Phật".
(Xem: 22420)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 7804)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 6869)
Bài Pháp này nhắc nhở các bạn về một số điều Phật dạy, như một cách để sách tấn, khuyến khích các bạn chăm chỉ thực hành đúng theo lời Phật dạy.
(Xem: 15068)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 8656)
Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật.
(Xem: 13133)
Giáo lý Duyên khởi (Cái này sinh, nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt) là nguyên tắc chung giải thích về sự hình thành hay hủy diệt của các pháp.
(Xem: 19063)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 6027)
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo...
(Xem: 6269)
Ở đời cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi con người chúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm đến con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân.
(Xem: 7042)
Chân lý tương đối là những sự thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là...
(Xem: 7358)
Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi.
(Xem: 8403)
Nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật.
(Xem: 5701)
Người ta thường tìm đủ mọi cách để gán một nhãn hiệu nào đó lên các lời giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 5891)
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt.
(Xem: 5529)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi, nhiều nguyên nhânđiều kiện.
(Xem: 6517)
Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giả cố gắng thực hành theo "Pháp yếu tọa Thiền tu tập Chỉ Quán" này chắc chắn sẽ đạt được kết quả lớn lao.
(Xem: 5961)
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ,
(Xem: 7556)
Mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài mãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi.
(Xem: 5840)
Bốn dấu ấn tiếng Phạn gọi là caturlaksana, tiếng Pa-li là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 6772)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni.
(Xem: 6827)
Khi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật.
(Xem: 5752)
Phật Giáo là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết. Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau.
(Xem: 6262)
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu, quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh...
(Xem: 5546)
Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầmgiác ngộ
(Xem: 7182)
Ý niệm về nghiệp hữu lý trên nhiều phương diện, nhưng một số người đã hiểu lầm về nghiệp.
(Xem: 6117)
Khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác.
(Xem: 7967)
Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn.
(Xem: 6128)
Người có tuệ giác biết nhìn thẳng vào sự thậtchấp nhận sự thật ấy dù đau thương rồi nỗ lực chuyển hóa, thăng hoa.
(Xem: 7150)
Đạo Phậtđạo từ bi và hành động thiết thực của nó mang đến sự an vui, bình yên cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 6983)
Ai có thể hàng phục được mười tám giới: sáu căn, sáu trần, và sáu thức, khiến chúng đừng tạo phản thì người đó chính là Bồ Tát.
(Xem: 7032)
Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant