Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 26 - Đà la ni

19 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 10027)
Phẩm 26 - Đà la ni

PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
Hoà thượng Thích Từ Thông
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

Phẩm 26: ĐÀ-LA-NI

Lúc bấy giờ Bồ-tát Dược Vương đứng dậy chấp tay hướng Phật bạch rằng: Thế Tôn! Nếu có trai lành gái tốt thọ trì kinh Pháp Hoa hoặc đọc tụng thông suốt, hiểu mau hoặc biên chép thành quyển, họ được phước đức nhiều chăng?

Đức Phật phản vấn: Nầy Dược Vương! Giả sửthiện nam tử, thiện nữ nhân cúng dường tám trăm muôn ức na-do-tha hằng hà sa Phật, ý ông nghĩ sao, người cúng dường chư Phật như thế phước đức của họ có nhiều chăng?

Bồ-tát Dược Vương thưa: Bạch Thế Tôn, rất nhiều.

Phật nói: Nếu có trai lành gái tốt nào đọc tụng, giải nghĩatu hành đúng như lời, dầu chỉ là một bài kệ 4 câu, công đức của người nầy còn nhiều hơn người cúng dường chư Phật vừa nói.

Lúc đó, Bồ-tát Dược Vương bạch Phật: “Thế Tôn ! Con nay sẽ hiến cho người giảng nói kinh Pháp Hoa một bài đà-là-ni (thần chú) để bảo hộ cho họ. Bồ-tát liền đọc bài chú:

“ An nhĩ, mạn nhĩ, ma nễ, ma ma nễ, chỉ lệ giá lê đệ, xa mế, xa lý đa vĩ chuyên đế…”

Bồ-tát tiếp nói: Thế Tôn ! Thần chú này là của 62 ức hằng hà sa Phật nói. Ai xâm phạm hủy hoại Pháp sư coi như là xâm huỷ các đức Phật vậy.

Lúc đó, đức Phật Thích Ca khen Bồ-tát Dược Vương. Hay thay! Hay thay ! Dược Vương vì thương tưởng muốn bảo hộ Pháp sư mà nói bài chú, ngươi sẽ giúp ích rất nhiều cho chúng sanh.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Dũng Thí bạch Phật: “Thế Tôn ! Con cũng xin vì người thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa mà nói đà-la-ni. Được chú nầy rồi, thì Pháp sư không bị Dạ-xoa, La-sát hoặc Phú-đơn-na, Kiết-giá, Cưu-bàn-trà, ngạ quỷ tìm thấy chỗ dở của mình nữa. Nói xong, Bồ-tát đọc bài chú: “Toa lệ, ma ha toa lệ, úc chỉ…” Rồi nói tiếp : “Thế Tôn ! Thần chú nầy là của hằng hà sa Phật nói và cũng đều tuỳ hỉ. Ai xâm phạm pháp sư tức xâm phạm chư Phật rồi vậy”.

Bấy giờ, Thiên Vương Tỳ Sa-môn là vị Trời che chở cho thế gian, bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Tôi cũng vì chúng sanhủng hộ Pháp sư bằng đà-la-ni nầy. Liền nói bài chú: “A lê, na lê, a na lư,na lý, câu na lý”. Lại bạch: Thế Tôn! Con đã dùng thần chú để ủng hộ Pháp sư, thì con cũng tự ủng hộ người trì kinh nầy, làm cho họ được trong khoảng trăm do tuần, khỏi điều tai nạn.

Bây giờ, Thiên vương Trì Quốc ở trong Pháp hội cùng với ngàn muôn ức na-do-tha Càn-thát-bà chấp tay bạch Phật: “Thế Tôn ! Chúng con cũng dùng thần chú đà-la-ni bảo hộ người trì kinh Pháp Hoa”. Liền nói chú: “A-dà-nể, dà nể, cù lợi, càn đà lợi, chiên đà lợi, mà đẳng kỳ thường cầu lợi, phù lầu tá nỉ ác đế”. Lại nói: “Thế Tôn ! Thần chú nầy là của 42 ức Phật nói, ai xâm huỷ Pháp sư cũng tức là xâm huỷ các đức Phật rồi vậy”.

Bấy giờ 10 La-sát cùng bọn quỷ, cả mẹ lẫn con đều đông bạch Phật: Thế Tôn! Chúng con cũng muốn ủng hộ người đọc tụng thọ trì kinh Pháp Hoa và trừ sự khổ hoạn cho họ, còn nếu có rẻ rình tìm chỗ dỡ của Pháp Sư thì khiến cho đừng tìm được. Nói xong, liền đọc bài chú: “ Y đề, y đề vẫn, y đề lý, an đề lý…” Lại tiếp,Các Dạ-xoa, La-sát, ngạ quỷ… hoặc quỷ làm bệnh nóng, từ một tới bảy ngày, hay làm bệnh nóng luôn, các nam nữ, trai gái, thà trèo lên đầu chúng con chớ không có thể làm hại Pháp sư, dầu là trong giấc chiêm bao. Mười la-sát và bọn quỷ liền trước Phật nói bài kệ:

Ai chẳng thuận chú ta

Não loạn người nói pháp

Thời dầu vở bảy phần

Như nhánh cây A-lê

Như tội giết mẹ cha

Cũng như hoạ ép dầu

Như lường cân tráo đấu

Như điều đạt phá tăng

Kẻ nào phạm Pháp

Sẽ mắt họa như thế

Nói kệ xong, các nữ La-sát bạch Phật: Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ tự mình ủng hộ người thọ trì, đọc tụng kinh này, làm cho họ được an ổn, xa các sự khổ hoạn, tiêu các thuốc độc.

Phật bảo các La-sát: Hay thay ! Hay thay ! chỉ ủng hộ người thọ trì tên kinh Pháp Hoa, chúng ngươi được phước chẳng thể lường, huống là ủng hộ người thọ trì toàn bộ và dùng mọi thứ hoa hương, chuỗi ngọc, tràng phan, kỹ nhạc… cúng dường kinh. Này Cao-đế! Các ngươi cùng quyến thuộc phải nên ủng hộ các Pháp sư như thế.

Lúc Phật nói phẩm “Đà-la-ni” này, có 68.000 người được “Vô sanh pháp nhẫn”.

THÂM NGHĨA

Người ta thường nói đạo Phật có 84.000 pháp môn hay nhiều hơn nữa. Hành giả có thể chọn pháp tu nào hợp ý thích của mình. Ví như một đại thành rộng lớn, thành thì một, nhưng cửa vào thành có nhiều,ai đi cửa nào tuỳ ý, miễn vào được thành là đến mục đích mong ước của người đi

Giáo lý Phật giáo, vốn đã có mầm phân chia tông phái từ Ấn Độ xa xưa. Đến thời kỳ Phật giáo truyền sang Trung Quốc, Đại thừa tư tưởng phát triển thạnh hành, các tông phái lại được lập ra và sự phân hoá lại càng rõ rệt thêm hơn nữa. Dù vậy, nhưng cách diễn đạt giáo lý, cách hướng dẫn tu hành, nhìn chung thì đại đồng tiểu dị nhưng cùng một đích là hướng dẫn con người đi vào đường giải thoátgiác ngộ.

Đặc biệt có hai giáo phái, nhìn qua như có sự đối kháng lẫn nhau. Nhưng đi sâu vào để tìm hiểu hai dòng tư tưởng của hai chủ trương, ta thấy rõ: Họ gặp nhaumục đích đến, chỉ khác nhau ở lộ trình đi, chung nhau ở cứu cánh, chia nhau ở phương tiện. Đó là Hiển giáoMật giáo.

Hiển giáo thì tận dụng ngôn ngữ văn tự, dù phải viết, phải nói vạn ngữ thiên ngôn, chừng nào sáng tỏ vấn đề, người đọc và nghe hiểu được nghĩa lý ý thú kinh điển, áp dụng chủ thuyết: “Văn nhi tư, tư nhi tu”. Hiển giáo rất chú trọng vấn đề tri thức cho người, hướng dẫn và truyền đạt giáo lý, khiến cho người nghe học và thực hành giáo lý ấy.

Mật giáo thì ngược lại, và có thể hiểu chủ trương của Mật giáo qua ý thơ của một Sư Tổ Việt Nam ở Huế mà tôi được nghe đức Hoà thượng Thượng Trí Hạ Thủ, cố Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung Ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Người nói cho tôi nghe và tôi được nhớ sau đây:

Kinh điển lưu truyền tám vạn tư

Học hành không thiếu cũng không dư

Năm nay tính lại chừng quên hết

Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ”

Có thể như vậy, mật giáo không chú trọng lý phải ngữ ngôn. Đà-la-ni là thứ văn tự ngữ ngôn không cần lý giải. Mật giáo chủ trương lối thực hành! “Tam mật tương ứng”. Thân mật, khẩu mậtý mật, nghĩa là: Thân, khẩu, ý quyện chặc không rời. Thân ngồi kiết già. Miệng tụng Đà-la-ni tương tục. Ý lắng nghe lời chú hoặc quán một đối tượng do hành giả phát nguyện và hướng tâm vào. Pháp hành của hành giả trì Đà-la-ni là “Tam mật”.

Tôi xin mở dấu ngoặc lớn ở đây: Rằng hành giả tu Mật nên để ý:

Trì Đà-la-ni đừng dụng ý Cầu đắc, cầu chứng, kết quả điên loạn đến với hành giả rất nhanh. Hành giả nên tâm niệm rằng: Nước trong trăng hiện, mây tan trời hiện; quặng hết vàng hiện, phiền não vô minh hết, Phật tánh hiện. Bấy giờ tức thân thành Phật vậy.

Dựa trên tông chỉ Mật giáotam mật tương ứng, tức thân thành Phật để luận xét ta thấy rằng trì Đà-la-ni nhằm dẫn dắt đưa hành giả từ “Tri kiến lập tri” lần đến “Tri kiến vô kiến” của hiện tượng trực giác và cái đích cuối cùngvô phân biệt trí, thứ trí căn bản của Bồ-tát Đại Trí Văn Thù.

Đà-la-ni là thứ văn tự ngữ ngôn, biểu trưng sự tận cùng ngôn ngữ. Vô lượng, vô số, bất khả thuyết a-tăng-kỳ, hằng hà sa Phật, từ vô lượng kiếp đều sử dụng thứ ngôn ngữ nầy. Thứ ngôn ngữ nhằm để phủ định ngôn ngữ. Phải đi đến tận cùng ngôn ngữ: rời danh tự, rời nói năng, rời tư duy phân biệt. Đó là điểm đến, là mục đích cuối cùng của pháp môn tu Mật của Đà-la-ni, Mật giáo.

Tam mật tương ứng rồi thì có tất cả: Thập thiện nghiệp, tứ đế pháp, thập nhị nhân duyên quán. Niệm Phật tam muội, chỉ quán, lục độ, Đà-la-ni… hàm dung thâu nhiếp vô lượng pháp môn vậy.

Đà-la-ni là pháp môn hành trì đem lại cho hành giả công đức vô cùng to lớn. Bậc cao như Bồ-tát Dược Vương, Dũng Thí bậc trung như Tỳ Sa-môn Thiên Vương, Trì Quốc Thiên Vương, thấp như La-sát, các quỷ đều phát nguyện trì Đà-la-ni, lấy Đà-la-ni làm pháp môn tu tập, gieo giống Phật của mình.

Đà-la-ni, xếp vào phẩm thứ 26 của kinh Pháp Hoa, nhằm đưa hành giả Pháp Hoa lên ngang hàng với Đại Trí Văn Thù, chuẩn bị cho Đại Trí Văn Thù xuất hiện. Văn ThùPhổ Hiền phải trùng phùng xuất hiện thì thời pháp tối thượng thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh mới đến hồi kết thúc, Đà-la-ni là pháp hành hiệu quả rất cao, phẩm Đà-la-ni chuẩn bị cho hành giả Pháp Hoa đi lần đến “Tri hành hợp nhất” vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 40034)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 37215)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28251)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28860)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 27126)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 34546)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27769)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 33198)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28517)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30026)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25457)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 51229)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26652)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28574)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 24315)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27416)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31875)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30134)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27655)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35380)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27397)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 31694)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 24131)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22975)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26605)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28205)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29322)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33208)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21722)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 20578)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22207)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23942)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22818)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23152)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30361)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 21751)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 19226)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20119)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 32666)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33967)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27715)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 23792)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 23163)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 28095)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 19179)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24536)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21391)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23787)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 29354)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 30970)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25280)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 20090)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 19015)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20099)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20004)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 19378)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22531)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 31087)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 19664)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 19652)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant