Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luận về vấn đề Phật sự

28 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 19204)
Luận về vấn đề Phật sự

LUẬN VỀ VẤN ĐỀ PHẬT SỰ
Chúc Phú

Có những biện giải Phật học mà đôi khi ý nghĩa thực tiển vượt thoát khỏi cái võ ngôn từ. Đó là khi hiện thực nương gá vào sự biện giải đó bị biến dạng theo lịch sử, thời gian. Gần gũi hơn, có những phạm trù, khái niệm mà khi vận dụng, ta vô tình quên mất nghĩa gốc ban đầu của chúng. Vấn dề Phật sự là một trường hợp như vậy.

1. Phật sự theo nghĩa lịch sử

Phật sự (Buddha-kārya) là việc của Phật. Việc của một đấng giác ngộ hoàn toàn và đem sự giác ngộ đó chuyển hóa chúng sanh. Ở tầng nghĩa nguyên thủy, việc của Phật chỉ tập trung chủ yếu vào mỗi một việc là chuyển hóađộ thoát chúng sanh. Nói cách khác, độ chúng sanh, làm cho chúng sanh giác ngộPhật sự.

Đọc lại lịch sử Đức Phật, theo Maha Thera Narada trong Đức PhậtPhật Pháp, có thể thấy một ngày của Đức Phật bắt đầu từ khi tảng sáng, khi ấy Phật dùng thiên nhãn để quán sát thế gian, xem có ai cần để Ngài tế độ. Nếu thấy có người cần hỗ trợ thì không đợi họ thỉnh cầu, Ngài tự ý đến để dẫn dắt người ấy. Sau khi thọ thực xong, Ngài thuyết một bài pháp ngắn. Khi đã trưa, Đức Phật lui về hương thất. Nếu muốn, Ngài nằm nghiêng bên mặt và định thần một lát. Lúc dậy, Ngài nhập Đại Bi Định (Maha Karuna Samapatti) và dùng Phật nhãn quan sát các vị tỳ kheo hành thiền nơi rừng sâu vắng vẻ hoặc các vị đệ tử khác ở xa, để hướng dẫn và khuyên dạy các vị ấy. Vào buổi chiều, thiện tín kéo đến nghe Pháp. Do Phật nhãn, Ngài nhìn vào khuynh hướng tâm tánh của từng người trong cử tọa để thuyết Pháp độ một giờ. Từ sáu giờ chiều đến mười giờ đêm là khoảng Đức Phật dành riêng để các vị tỳ kheo được tự do thỉnh cầu nhằm soi sáng những hoài nghi về giáo pháp, xin đề mục hành thiền. Từ mười giờ đến hai giờ khuya, chư Thiên từ các cõi Trời, đến hầu Phật và hỏi Ngài về giáo pháp. Canh cuối cùng trong đêm, từ hai giờ khuya đến sáu giờ sáng, được chia làm bốn phần. Trong phần đầu, từ hai đến ba giờ, Đức Phật đi kinh hành (cankamana). Từ ba đến bốn giờ, Ngài nằm định thần, nghiêng về phía tay mặt. Từ bốn đến năm giờ, Ngài nhập Đại Bi Định (Maha Karunasamapatti), và rải tâm Từ đến khắp nơi.

Có thể nói, trọn cả ngày, Đức Phật luôn bận rộn với nhiệm vụ hóa độ cho tha nhân. Thuyết giảng cho chư Thiên, giảng dạy chúng xuất gia, thuyết giảng cho chúng tại giatùy cơ nghi hóa độ bất cứ ai cần ngài, không phân biệt thời gian và trú xứ. Ngài đơn giản hóa đến mức có thể về vấn đề chổ ở, thức ăn, nhằm dành tất cả thời gian còn lại của đời mình vào bản thệ hóa độ chúng sanh. Như vậy, Phật sự được hiểu ở đây chính là sự nghiệp hóa độ vĩ đại của Đức Phật. Ở tầng nghĩa này, chúng ta chỉ là người đứng rất xa và còn rất lâu mới với tới.

2. Phật sự theo nghĩa phái sinh hay là hai loại Phật sự

Như đã nói, việc của Phật thì chỉ có Phật hiểu và chỉ có Phật mới làm được. Kinh Pháp Hoa đã khẳng định điều này[i]. Nếu việc Phật được hiểu trong khuôn khổ giới hạn như vậy là một thiệt thòi lớn cho chúng sanh, vì chúng sanh còn rất lâu mới thành Phật. Hơn đâu hết, trong nhiều kinh điển, Đức Phật đã từng tán thán khả năng thành Phật ở mỗi chúng sanh[ii]. Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, cùng với quá trình phát triển của các tông phái Phật giáo, quy mô, thể thức cũng như phạm vi lan tỏa của Phật giáo ngày càng được mở rộng. Từ đây, khái niệm Phật sự từng bước mở rộng phạm vi của mình.

 Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật. Phàm các việc làm nhằm phát huy đức của Phật thì gọi là Phật sự[iii]. Như vậy, ở nghĩa phái sinh này, Phật sự được thể hiện rất bao quát ở nhiều dạng, nhưng tựu trung, có thể khái quát khái niệm Phật sự ở nghĩa phái sinh bao hàm hai hình thức: Nỗ lực tu tập cho bản thâncông hạnh hóa độ tha nhân.

Trong hai dạng Phật sự nêu trên, dạng thứ nhất là điều quan thiết, chính yếu. Vì lẽ, nỗ lực để được như Phật là cả một quá trình, không phải chỉ một ngày, một đời, một kiếp mà có thể xuyên qua vô số kiếp. Trên năm trăm chuyện tiền thân của Đức Phật được ghi lại trong các tập Jataka đã chứng tỏ rằng, trước khi thành Phật, ngài đã kinh qua vô số kiếp sống và đã thực hành nhiều hạnh nguyện khác nhau. Do đó, đã là người xuất gia thì phải nỗ lực: “Hãy đứng dậy, ngồi dậy, Hãy kiên trì học tập, Ðạt cho được an tịnh, Ðừng để cho thần chết, Biết Ông là phóng dật, Mê hoặc, chinh phục Ông[iv]. Nói rõ hơn, hàng đệ tử Phật, đã đi theo con đường của Phật thì phải nỗ lực tu tập và tự chuyển hóa, dù ở đâu và trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nếu thực hiện được như vậy, tức là thực hiện được phương diện thứ nhất của nghĩa Phật sự.

Ở tầng nghĩa thứ hai, tức xem việc hóa độ chúng sanhPhật sự. Điều này, được khẳng định rõ ràng và mạnh mẽ nhất ở Kinh Hoa Nghiêm: “Phụng sự chúng sanh tức cúng dường chư Phật”[v]. Và như vậy, với lý tưởng Bồ tát của giáo nghĩa đại thừa, ý nghĩa Phật sự đã được mở rộng lên một tầm mức mới. Vì lẽ, lý tưởng độ thoát chúng sanh, độ tận, không mệt mõi, sẳn sàng vận dụng vô vàn phương tiện, vô vàn hình thức, miễn sao làm cho chúng sanh chuyển mê khai ngộ, lìa khổ, được vui… thì người theo lý tưởng Bồ tát sẳn sàng làm. Ở đây, chúng ta có thể thấy lý tưởng độ chúng sanh được khởi dậy mạnh mẽ, thể hiện qua sự phát nguyện của ngài A Nan, được ghi lại trong thời công phu sáng như: Con phủ phục thỉnh cầu, đức Thế Tôn từ bi, mà chứng minh cho con: trong thời kỳ dữ dội, đầy năm thứ vẫn đục, con nguyện vào đó trước, nếu còn một chúng sanh, chưa được thành Phật đà, không bao giờ với họ, con bỏ mà Niết bàn”[vi]. Trong hành hoạt của các vị đại Bồ tát gắn với đời sốngniềm tin trong nhân gian như Quán Thế Âm Bồ tát, Địa Tạng Bồ tát, ta dễ dàng bắt gặp sự phát nguyện tương tự. Không những vậy, tâm nguyện độ sanh không chỉ xuất hiện và dành riêng cho các vị đại Bồ tát, mà còn được thể hiện ở bất cứ ai mạnh mẽ phát tâm, không chỉ dừng lại ở một đời này mà còn được thể hiện trong những đời sống tiếp theo. Nói như ngài Thật Hiền: “Tôi đi là trở lại liền”[vii]. Trở lại cõi đời này để tiếp tục sứ mạng độ sanh. Một câu nói ngắn nhưng hàm nghĩa cho lý tưởng độ sanh chất ngất, vô biên. Nói cách khác, trong lý tưởng của hàng Bồ tát, từ sơ phát tâm cho đến khi thành tựu trọn vẹn, sứ mạng độ thoát chúng sanh luôn là nổi khắc khoải khôn nguôi, là bản hoài khi hóa hiện trên cuộc đời này. Và cũng do bởi yếu tính này, nghĩa của Phật sự trong giáo nghĩa đại thừa ngày càng được mở rộng hơn bao giờ hết.

blankTrong thời đại ngày nay, Phật sự ở nghĩa này dường như bao quát hầu hết mọi việc làm của người xuất gia như: từ thiệncứu tế, ứng phó đạo tràng, kiến thiết già lam, tự viện, giảng dạy cho chúng xuất gia và tại gia…cùng như nhiều việc vô danh khác. Kinh Duy Ma đã mở rộng nội hàm khái niệm Phật sự như sau: “Có thế giới lấy ánh sáng của Phật mà làm việc Phật. Có thế giới lấy bồ tát mà làm việc Phật. Có thế giới lấy người Phật hóa ra mà làm việc Phật. Có thế giới lấy cây bồ đề mà làm việc Phật. Có thế giới lấy y phục hay đồ nằm của Phật mà làm việc Phật. Có thế giới lấy cơm ăn mà làm việc Phật. Có thế giới lấy vườn rừng lầu đài mà làm việc Phật. Có thế giới lấy ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp mà làm việc Phật. Có thế giới lấy thân Phật mà làm việc Phật. Có thế giới lấy sự trống không mà làm việc Phật. Chúng sinh thích ứng với những duyên tố trên đây mà được vào chánh pháp. Có thế giới lấy chiêm bao, ảo thuật, hình ảnh, tiếng vang, bóng trong gương, trăng dưới nước, sóng nắng, những sự ví dụ như vậy mà làm việc Phật. Có thế giới lấy âm thanh ngôn ngữ văn tự mà làm việc Phật. Có thế giới trong sạch lấy sự vắng lặng, không nói năng, không chỉ bảo và không thi vi mà làm việc Phật. Như thế ấy, A nan, chư Phật cử động tới ngừng, mọi việc toàn là việc Phật. A nan, ma quân có bốn loại, phiền não có tám mươi bốn ngàn thứ, chúng sinh vì thế mà khốn đốn, còn chư Phật thì lấy chính những thứ ấy mà làm việc Phật”[viii]. Tựu trung, có thể xem diệu dụng pháp Phật là Phật sự.

3. Điều kiện để làm Phật sự

 Trong hai nghĩa phái sinh của khái niệm Phật sự vừa được trình bày, làm Phật sự ở nghĩa chuyển hóa bản thân hay tự tu, tự độ đòi hỏi những điều kiện rõ ràngđơn giản. Vì trong quá trình tự tu tập, tự chuyển hóa đó, đã bao hàm những yêu cầu bắt buộc của từng gian đoạn hành trì rồi. Nói rõ hơn, làm Phật sự ở nghĩa này rất an ổn, bình yên và luôn được vinh danh, tán thán.

Do yếu tính uẩn áo, hàm súc của khái niệm Phật sự được mở rộng từ cơ sở triết lý của giáo nghĩa đại thừa, làm Phật sự ở nghĩa phái sinh thứ hai được thể hiện trong tính hiện thực sinh động, nhưng đồng thời cũng bộc lộ ra những bất cập, nhưng khiên cưỡng, vì đôi khi có những sự lồng ghép, quá sức và thậm chí là nhân danh. Do đó, khi thực thi Phật sự ở nghĩa này, đòi hỏi người thực hành cần phải kiện toàn một vài tố chất căn bản.

Thứ nhất, cần phải phải hiểu rõ bản thân, phải có sức mạnh và chí khí lớn. Hiểu rõ năng lực cũng như hạn chế của mình. Nhận thức rõ đâu là chỗ mạnh đâu là thế yếu của bản thân để định ra một hướng đi thích hợp. Vì lẽ, con đường phụng sự, độ tha trong nghĩa rộng nhất của khái niệm Phật sự, là con đường tuy rất mực cao đẹp nhưng cũng đầy thử thách, cam go. Con đường đó không thích hợp cho những ai mang thể trạng yếu đuối và một chí khí khiếp nhược về thân và cả về tâm. Nói như kinh Địa Tạng[ix], sẽ rất mực nguy hiểm nếu như người đã ốm yếu nhưng lại mang đá nặng, đã vậy, lại gặp phải người thân gửi thêm hàng hóa nữa thì bản thân dễ dàng lâm vào tình thế hiểm nguy. Ở đây, mỗi cá nhân có thề tùy chọn một dạng Phật sự nào đó, vừa sức lực và vừa phù hợp với biệt nghiệp của mình để thực hiện. Biết rõ bản thân để thực hiện Phật sự là tâm thế tích cực cần có của hàng xuất gia.

Thứ hai, cần phải duy trì năng lượng thương yêu trong suốt quá trình thực hiện Phật sự. Năng lượng thương yêu đó là đồng thể đại bi tâm, là tâm thương yêu không điều kiện và rộng khắp, không bị giới hạn bởi không gian và vượt cả mọi khoảng thời gian. Trong suốt quá trình làm Phật sự, năng lượng này cần phải song hành, vì nếu như quên mất năng lượng, hoặc năng lượng đó bị gián đoạn thì mọi việc làm mang danh là Phật sự kia, đều trở nên vô nghĩa, thậm chí đôi khi rơi vào trạng thái xấu nhất của hiện thực. Đó là điều được khẳng định ở Kinh Hoa Nghiêm: Quên mất tâm Bồ đềtu hành các thiện pháp, thì gọi là hành động theo ma vương”[x] Nói theo kinh Pháp Hoa thì khi làm Phật sự thì cần phải “vào nhà Như Lai, mặc y Như Lai, ngồi tòa Như Lai. Nhà của đức Như-Lai là tâm đại từ bi đối với tất cả chúng sinh. Áo của đức Như-Lai là nhu hòa nhẫn nhục. Chỗ của đức Như-Lai là tất cả các pháp đều không”[xi]. Duy trì tất cả những tâm thế vừa nêu để thừa hành Phật sự, thì diệu nghĩa của Phật pháp được thể hiện.

Thứ ba, làm Phật sự với tâm tùy hỷ, vô cầu. Vui với niềm vui của mọi người là điều mà người làm Phật sự cần phải thực hiện. Phải dũng mãnh như đại nguyện Tùy hỹ thứ năm trong mười hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền và phải giữ tâm vô dục, vô cầu. Phải mở rộng và chiêm nghiêm thêm từ lời dạy của đức Phật được thể hiện trong kinh Nghĩ như thế nào:Chúng con không nghĩ rằng: "Vì nhân y áo, Sa-môn Gotama thuyết pháp. Hay vì nhân đồ ăn khất thực, Sa-môn Gotama thuyết pháp. Hay vì nhân sàng tọa, Sa-môn Gotama thuyết pháp. Hay vì nhân thành bại, Sa-môn Gotama thuyết pháp"[xii]. đức Phật thuyết pháp chỉ vì: “Với từ tâm, vì lợi tha và do lòng từ, Thế Tôn thuyết pháp"[xiii] .

Từ thực tế mỗi mỗi việc của người con Phật hiện nay đều mặc nhiên dùng từ Phật sự để biểu thị. Trong sự phong phú sinh động về việc làm của hàng xuất gia thời nay, nên chăng cần phải minh định đâu là Phật sự, đâu là gần với Phật sự và đâu chưa phải là Phật sự? Nên chăng có thể tạm phân ra hai hạng Phật sự như Xuất thế gian Phật sựThế gian Phật sự? Nhập thất quyết tu, kiến thiết già lam, cứu tế xã hội, làm kinh tế cho nhà chùa, tham gia các hoạt động văn hóa, gia nhập hội đoàn xã hội… đều là những việc mà người xuất gia thời nay đã và đang miệt mài thực hiện. Tuy nhiên, vẫn chưa có một sự cảnh báo hay một sự phân định và đánh giá, đâu là những Phật sự đòi hỏi người thực hiện phải có chí khí lớn, phải có tâm và có tầm và quan trọng nhất là phải luôn có Bồ đề tâm. Chính xác hơn, mặc dù đã có sự cảnh báo từ lâu trong kinh điển, nhưng không được nhắc lại, không được chú trọng nên dễ bị lãng quên. Và cũng vì vậy, nên trong quá trình thực hiện Phật sự, do chưa nhận thức đầy đủ về bản thân, do chưa được trang bị kỹ càng, do sự thiếu vắng của tri thứctrí tuệ, do chưa được phòng hộ đủ đầy và chu đáo, nên đôi khi nhân danh làm Phật sự, nhưng kết quả đạt được chỉ tiệm cận với Phật sự trong nghĩa tích cực mà thôi. Bởi lẽ, một thực tế hiển nhiênchúng ta cần bình tâm để nhận ra rằng: hấp lực của ngũ dục vẫn là một trong những điều quan ngại và vẫn mang tính thời sự, xưa cũng như nay.



[i] Kinh Pháp Hoa, Phẩm Phương tiện thứ hai, bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh: Thôi Xá-Lợi-Phất! Chẳng cần nói nữa. Vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có thứ nhất mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chân thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt ráo như vậy.

[ii] Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới. Hòa thượng Thích Trí Quang dịch, Nguyên văn là: nên hết thảy đại chúng, chí tâmthâm tín; thâm tín rằng chính mình, là đức Phật sẽ thành, y như Như Lai đây, là đức Phật đã thành,

[iii] Phật Quang Đại Từ Điển, Hội văn hóa giáo dục Linh Sơn, Đài Bắc xuất bản, 2000, tập 4, trang 4273

[iv] Kinh Tập, Sutta Nipata, chương hai, Kinh đứng dậy, kệ 332

[v] Đại phương quảng Phật Hoa Nghiêm kinh, Nhập bất tư nghì giải thoát cảnh giới Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm. Đúng theo văn kinh là: 若菩薩能随順眾生. 則為随順供養諸佛, 大方广佛华严经入不思议解脱境界普贤行愿品

[vi] Hòa thượng Thích Trí Quang dịch, Hai Thời Công Phu, NXB. TP. Hồ Chí Minh, 1994, tr 141…).

[vii] Hòa thượng Thích Trí Quang dịch, Bài văn khuyến khích phát tâm Bồ đề, tr 16

[viii] Hòa thượng Thích Trí Quang dịch, Kinh Duy-ma, Phẩm Việc Làm Bồ Tát.

[ix] Hòa thượng Thích Trí Tịnh, dịch, Kinh Địa Tạng, Phẩm thứ bảy, Lợi ích cả kẻ còn người mất

[x] Hòa thượng Thích Trí Quang dịch, Bài văn khuyến khích phát tâm Bồ đề, tr 31

[xi] Hòa thượng Thích Trí Tịnh, dịch, Kinh Pháp Hoa, phẩm Pháp sư công đức,  thứ 10

[xii] Trung Bộ Kinh, Kinh Nghĩ như thế nào (Kinti Sutta), hòa thượng Thích Minh Châu, dịch

[xiii] Trung Bộ Kinh, sđd

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8319)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
(Xem: 7588)
Lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa?
(Xem: 8625)
Hai chữ “Sinh Tử” đã khiến cho biết bao nhiêu người bất kể trí ngu giàu nghèo từ xưa đến nay đều phải lưu ý tới và khổ tâm vì nó.
(Xem: 7167)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ”[1], tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp.
(Xem: 8441)
Đối với Phật giáo mỗi người làm chủ lấy vận mạng của chính mình. Mỗi chúng ta đều mang trong mình một tiềm năng ngang nhau...
(Xem: 7744)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta
(Xem: 7027)
Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tố là tathā và Agata hoặc tathā và gata.
(Xem: 8233)
TA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được.
(Xem: 9257)
Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta thường thấy câu thành ngữ “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”.
(Xem: 7956)
Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.
(Xem: 8439)
“Bạn có nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày nữa của đời mình chăng? Thật ra hôm nay không phải chỉ là ‘một ngày nữa’ thôi, mà nó là một ngày được riêng dâng tặng cho bạn.
(Xem: 8084)
Phật dạy chúng ta hãy đem chánh niệm vào tất cả những việc mình làm trong đời sống hằng ngày. Ngài không bỏ ra ngoài bất cứ một việc làm nhỏ nhặt nào hết...
(Xem: 9643)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 6802)
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình…
(Xem: 6837)
Đức Phậtlòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
(Xem: 7062)
Hộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật.
(Xem: 6694)
Tăng quan luận (僧官論) là một trong những bộ luận do ngài Thích Ngạn Tông (557-610)1 trước tác, nhằm thuyết minh và lý giải các chức vụ do chư Tăng đảm nhiệm (廣明僧職)
(Xem: 7222)
Chưa có tài liệu nào về niên đại của đức Phật lịch sử, vị sáng lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
(Xem: 6868)
Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụhiện thân của Ngài.
(Xem: 16297)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 7564)
Con đường Bồ tátcon đường lý tưởng nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa – không phải là pháp tu để thành thánh, thành tiên, mà là một lối sống ai cũng có thể ước mong thành tựu được.
(Xem: 6505)
Sau kiến đạo, các pháp hữu lậu không thuộc kiến sở đoạn (darśana-prahātavya). Tức các pháp hữu lậu còn lại, trừ kiến chấp ô nhiễm khởi lên do tà phân biệt.
(Xem: 6970)
Đa số người xưng là Phật tử mà không biết rõ đường lối tu hành, ai bày sao làm vậy, trở thành mê tín sai lầm, khiến người đời phê bình đạo Phật là huyền hoặc, là vô ích.
(Xem: 7294)
Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất.
(Xem: 6378)
Tánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó...
(Xem: 6745)
Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng.
(Xem: 5599)
Người Phật tử chân chính chớ nên dòm ngó lỗi người, chúng ta chỉ nên nhìn lại hành động của mình, xem đã làm được điều gì tốt đẹp hay chưa.
(Xem: 8934)
"Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác.
(Xem: 7416)
Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu mình chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác thì hãy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương tiếp dẫn hậu lai, trả ơn đức Phật".
(Xem: 22395)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 7801)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 6867)
Bài Pháp này nhắc nhở các bạn về một số điều Phật dạy, như một cách để sách tấn, khuyến khích các bạn chăm chỉ thực hành đúng theo lời Phật dạy.
(Xem: 15063)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 8647)
Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật.
(Xem: 13126)
Giáo lý Duyên khởi (Cái này sinh, nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt) là nguyên tắc chung giải thích về sự hình thành hay hủy diệt của các pháp.
(Xem: 19042)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 6023)
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo...
(Xem: 6264)
Ở đời cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi con người chúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm đến con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân.
(Xem: 7029)
Chân lý tương đối là những sự thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là...
(Xem: 7344)
Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi.
(Xem: 8403)
Nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật.
(Xem: 5692)
Người ta thường tìm đủ mọi cách để gán một nhãn hiệu nào đó lên các lời giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 5887)
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt.
(Xem: 5526)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi, nhiều nguyên nhânđiều kiện.
(Xem: 6516)
Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giả cố gắng thực hành theo "Pháp yếu tọa Thiền tu tập Chỉ Quán" này chắc chắn sẽ đạt được kết quả lớn lao.
(Xem: 5954)
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ,
(Xem: 7539)
Mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài mãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi.
(Xem: 5835)
Bốn dấu ấn tiếng Phạn gọi là caturlaksana, tiếng Pa-li là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 6764)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni.
(Xem: 6811)
Khi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật.
(Xem: 5746)
Phật Giáo là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết. Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau.
(Xem: 6247)
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu, quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh...
(Xem: 5542)
Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầmgiác ngộ
(Xem: 7179)
Ý niệm về nghiệp hữu lý trên nhiều phương diện, nhưng một số người đã hiểu lầm về nghiệp.
(Xem: 6114)
Khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác.
(Xem: 7949)
Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn.
(Xem: 6113)
Người có tuệ giác biết nhìn thẳng vào sự thậtchấp nhận sự thật ấy dù đau thương rồi nỗ lực chuyển hóa, thăng hoa.
(Xem: 7139)
Đạo Phậtđạo từ bi và hành động thiết thực của nó mang đến sự an vui, bình yên cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 6971)
Ai có thể hàng phục được mười tám giới: sáu căn, sáu trần, và sáu thức, khiến chúng đừng tạo phản thì người đó chính là Bồ Tát.
(Xem: 7024)
Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant