Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật dạy về tình bạn theo Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt

22 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 19226)
Phật dạy về tình bạn theo Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt

PHẬT DẠY VỀ TÌNH BẠN
THEO KINH GIÁO THỌ THI CA LA VIỆT
Chúc Phú

blankBạn bè là sự thể hiện sinh động cho mối quan hệ đặc thù giữa người với người. Mối quan hệ đó được thiết lập căn bản trên sự đồng đẳng hoặc bất đồng đẳng về giới tính, tuổi tác, chí nguyện, đam mê, sở thích,… là tiêu chí quan trọng để khẳng định nhân cách hoặc quan điểm sống của một con người.

Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng, và là một trong những nhân tố quan trọng, có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực lên bối cảnh sống cũng như khả năng thăng hoa tâm linh của một con người. Sống phải có bạn bè. Không có bạn bè, được xem là một trong năm điều bất hạnh đã được Đức Phật cảnh báo(1).

Phân loại đặc tính của một tình bạn tốt

Sự vận hành tất bật của dòng sống sinh động đã đưa con người đến với nhau. Có những mối gặp gỡ và liên hệ thoáng qua, có những mối gặp gỡ và liên hệ vững bền. Trong sự phong phú của các mối liên hệ và quan hệ đó, tình bạn xuất hiện. Do bởi đặc tính riêng của từng mối quan hệ và liên hệ nêu trên, tình bạn cũng được thể hiện với nhiều dạng thức phong phúsinh động.

Theo quan niệm thường tình, nếu căn cứ về phương diện hình thức thì tình bạn có thể tạm phân định ra những dạng như: bạn đường, bạn học, bạn đồng hương, bạn đồng nghiệp, bạn tri kỷ, bạn đời, bạn đạo, bạn đồng tu… Nếu xét riêng về phương diện giá trịtính chất, thì tình bạn có thể phân làm hai loại: bạn tốt và bạn xấu. Trong quan hệ bạn bè nói chung, hai tính chất này đóng vai trò quyết định cũng như xác định chiều hướng thăng hoa hay suy đọa của từng mối quan hệ.

Ở đây, mặc dù hình thứctính chất là hai yếu tố luôn hiện hữu bên nhau trong quan hệ bạn bè, tuy nhiên, hình thức là biểu hiện dễ thấy nhất. Bởi lẽ, đặc thù của điều kiện sinh hoạthoàn cảnh sống của con người đã tạo ra những hình thức bạn bè tương ứng. Do đó, để hiểu rõ thực chất về các mối quan hệ bạn bè, thì việc khảo sát về hình thứctính chất của từng mối quan hệ đó là những việc cần làm. Tuy nhiên, theo cảm quan của người viết, dù mang bất cứ hình thức nào đi chăng nữa, thì tính chất của mối quan hệ bạn bè là điều tối quan trọng, vì tính chất sẽ nói lên thực chất của mối quan hệ đó là gì. Và do vậy, bài viết chỉ tập trung khảo sát về tính chất, mà cụ thểtính chất tích cực, của các mối quan hệ bạn bè theo lời dạy của Đức Phật trong kinh điển.

Theo kinh Giáo thọ thi ca La việt - Sigalovada Sutta(2), mặc dù bạn bè có nhiều dạng thức khác nhau, nhưng thực chất bạn tốt thì không nhiều. Theo kinh văn, có bốn loại bạn tốt mà ta có thể bắt gặp trên cuộc đời, đó là:

Thứ nhất, là những người có thể che chở bản thân bạn và cả tài sản khi bạn vô ý phóng dật, là chỗ nương tựa khi bạn sợ hãi, giúp đỡ bạn thật nhiều khi bạn túng thiếu(3).

Đã là con người, ai cũng có đôi khi lâm vào tình cảnh yếu đuối, thế cô, mất kiểm soát bản thân cũng như tài sản. Cụm từ vô ý phóng dật thể hiện cho sự vô tình mất kiểm soát bản thân, trong việc sa đà vào những trò vui thông thường mà thế gian thường có. Một cuộc giao du thân hữu, một buổi liên hoan quá đà, khi tri giác bị mê mờ và thân thể oặt ẹo thì có khả năng bạn sẽ đối diện với bao nguy cơ bất an về sinh mệnh và cả tài sản. Sự hiện hữu của bạn tốt vào lúc này có thể giúp bạn vượt thoát khỏi tình cảnh nguy hiểm nêu trên.

Kế đến, sợ hãi là một thuộc tính tâm lý gắn kết với con người từ khi lọt lòng cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay. Thử hỏi, có mấy ai trên cuộc đời này không từng hơn một lần đối diện với một hoặc nhiều nỗi sợ hãi? Sợ thất nghiệp, sợ hết tiền, sợ ốm đau, sợ không đẹp, sợ già, sợ chết, sợ túng thiếu, sợ phản bội, sợ kẻ thù, sợ thiên tai…. Tuổi trẻ, trung niên và lão niên đều có những mối lo âu thường trực, gắn liền với từng chặng đường tuổi tác. Trong khi lâm vào hoàn cảnh sợ hãi đó, tâm bạn sẽ bối rối bất an và khổ đau là hệ quả kéo theo, làm khô cằn và héo úa tâm tư của bạn. Ở đây, một người bạn chân tình sẽ là chỗ dựa tin cậy, lắng nghe và sẻ chia, giúp bạn vượt qua trong từng nỗi sợ cụ thể.

Kế nữa, một người bạn tốt là người bạn có thể giúp bạn khi bạn lâm vào hoàn cảnh túng thiếu, khó khăn. Giúp một cách thật lòng và thật nhiều. Một người bạn tốt phải vượt qua quan niệm hoán đổi vật chất dung tục: bánh ít đi, bánh quy lại mà phải là cho đi không cầu mong nhận lại bao giờ. “Giúp đỡ cho bạn của cải gấp hai lần những gì bạn thiếu” đó là ý chính của nguyên ngữ kinh văn.

Thứ hai, một người bạn tốt luôn chung thủy với bạn, khi khổ cũng như khi vui, chia sẻ những điều sâu kín trong tâm tư mình và đồng thời giữ bí mật cho bạn, không bỏ bạn hoặc khinh thường khi bạn gặp khó khăn, dám hy sinh thân mạng vì bạn(4).

Tình bạn tốt là tình bạn được thử thách qua hoàn cảnhthời gian. Một tình bạn tốt là một tình bạn vẫn được giữ bền vững khi nghèo khó cũng như khi giàu sang. Trong nhân gian, hấp lực của của cải vật chất dễ làm chao đảo và thay đổi lòng người. Một tình bạn chân chính phải vượt qua sự cuốn hút đó cũng như phải tránh xa hiện thực: giàu đổi bạn mà người đời cực lực lên án. Thủy chung, như nhất với bạn, trước sao sau vậy là đức tính cần có của một tấm chân tình.

Kế đến, trải nghiệm bản thân để rút ra những tri thức quý giá là điều mà con người thường thực hiện. Do bởi việc tự thân trải nghiệm đôi khi phải trả giá bằng đau khổ của chính mình, cho nên chỉ có thể sẻ chia tri thức đó, và chỉ có thể sẻ chia những điều sâu kín trong lòng cho những ai là bạn thân.

Song song đó, giữ điều bí mật cho người cũng là đức tính mà người bạn tốt cần phải kiện toàn. Vì giữ bí mật cũng đồng nghĩa với việc bảo hộ thanh danh, tiếng tốt cho bạn. Nếu bạn gặp khó khăn, ta phải ra tay cứu giúp. Nếu bạn bị sa cơ thất thế, ta cần phải lân mẫn quan tâm, không được coi thường hay khinh rẻ bạn.

đặc biệt, một đức tính được thắp lên chất ngất sáng ngời, là dấu hiệu cao cả của một tình bạn tốt, đó là dám hy sinh thân mạng vì bạn. Ai cũng rõ, cái quý nhất trên cuộc đời là sinh mạng, là sự sống. Sự sống là giá trị duy nhất không thể có cái thứ hai. Đó cũng là điều dễ hiểu để lý giải tại sao đôi khi người ta bất chấp tất cả, miễn làm sao giữ được sinh mạng của chính mình. Dám hy sinh cái duy nhất, cái quý nhất đó là một điều mà người bạn tốt có thể thực hiện. Kiện toàn được tiêu chuẩn này, thì khoảng cách vươn tới chân lý Vô ngã không còn xa. Không những lần đầu tiên xuất hiện trong kinh Phật, đọc lại lịch sử phát triển của nhân loại, Đông cũng như Tây, ở quá khứ cũng như hiện tại, gương hy sinh vì bạn bao giờ cũng được tán thán và tôn vinh.

Thứ ba, một người bạn tốt phải biết khuyến khích bạn làm điếu tốt, ngăn chặn bạn làm điều xấu ác, chỉ bày bạn những điều bạn chưa hiểu, chia sẻ và đưa ra những lời khuyên bổ ích, hướng bạn vươn lên những cõi thiện, lành(5).

Làm người thì vẫn chưa đủ, mà phải là làm người tốt. Bạn bè cũng vậy, tình bạn tốt khác với tình bạn thông thường ở chỗ, đó là phải nỗ lực khuyên bảo bạn làm điều tốt, ngăn chặn, không cho bạn làm điều xấu, điều không hay. Có như vậy, ý nghĩa hỗ tương lẫn nhau của một tình bạn được thể hiện. Có thể, sự khuyên răn của ta đôi khi làm bạn bực dọc, chán ngán, nhưng một khi đời sống của bạn có sự chuyển hóa thật sự từ sự khuyên răn kia, tất sự hàm ơn sẽ xuất hiện trong tâm của bạn. Và như vậy, tính tương hỗ, keo sơn của bạn bè thân hữu, sẽ được thăng hoa lên cung bậc mới. Đó cũng là điều được khẳng định trong kinh Dhananjani(6): người vì bạn bè thân hữu làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Là một người bạn tốt, thì cần phải sẻ chia cho nhau, không những phương diện vật chất mà con cả phương diện tinh thần. Ở đây, bạn tốt phải là người sẻ chia tri thức, kinh nghiệm. “Học thầy không tày học bạn”. Dân gian đã khái quát giá trị đó thành một phương châm kiện toàn kiến thức hữu hiệu cho mọi người.

Hơn thế nữa, sự gần gũi, sự thấu hiểu, sự cảm thông lẫn nhau giữa một tình bạn tốt, là điều kiện thuận lợi để có thể đưa ra những lời khuyên phù hợp và bổ íchTăng Chi(7). Ở đây, chỉ có bạn bè, thường là người đầu tiên đưa ra lời khuyên kịp thời cho bạn nhất. trong những tình huống đời thường. Một lời khuyên kịp thời và bổ ích đôi khi cứu được sinh mạng của một con người hoặc có khả năng chuyển hóa một tâm trạng bế tắc, cùng quẫn. Cũng vì vậy, giá trị của lời nói đúng lúc, đúng thời được đánh giá rất cao trong kinh

Và chuẩn mực cuối cùng, một người bạn tốt phải là người có chí nguyện hướng thượng, thanh cao và cùng đưa bạn vươn lên thực hiện chí nguyện đó. Không thân cận kẻ ngu/ Nhưng gần gũi bậc trí/ Ðảnh lễ người đáng lễ/ Là điềm lành tối thượng(8).

Thứ tư, một người bạn tốt phải là người lấy khổ đau và hạnh phúc của bạn làm khổ đau hay hạnh phúc của mình; ngăn chặn những ai nói xấu bạn và tán thán những ai ca ngợi bạn(9).

Vui với niềm vui của bạn và buồn khi bạn gặp chuyện bất an là tâm thế cần có của một người bạn tốt. Bạn vui thì mình vui là điều dễ thực hiện, nhưng khi bạn buồn đòi hỏi mình phải có một thái độ phù hợp để sẻ chia. Nguyên văn của kinh là: “Không hoan hỷ khi bạn gặp hoạn nạn; hoan hỷ khi bạn gặp may mắn”. Ở đây, ý nghĩa tích cực của cụm từ không hoan hỷ đồng nghĩa với việc ra tay tương trợ khi bạn gặp hoạn nạn. Khi hoạn nạn mới biết ai là bạn. Quan niệm phổ thông và thường tình đó của thế gian dường như là sự biến tấu nhiệm mầu về chân lý tình bạnĐức Phật đã dạy từ lâu trong kinh điển.

Một người bạn lý tưởng thì luôn sẵn sàng lăn xả khi bạn của mình gặp hiểm nguy, vì lằn ranh giữa bạn và ta vốn dĩ rất nhạt nhòa cho một tình bạn thực lòng và đúng nghĩa.

Mặt khác, khi sống trong cuộc đời, ai cũng từng đối diện với tám ngọn gió của thế gian, như: lợi danh và thất bại, tiếng xấudanh thơm, tán thánchỉ trích, hạnh phúc và khổ đau(10). Nói xấu nhau cũng như ca ngợi nhau là hai trong tám ngọn gió đời có thể làm xáo trộn và đôi khi gây ra sự biến loạn trong đời sống của một con người. Ngăn chặn ai đó nói xấu bạn cũng như tán thán ai đó khen ngợi bạn, là minh chứng sinh động của một tình bạn tốt.

Vài suy nghĩ về một tình bạn vững bền

Tìm kiếm và có được một người bạn tốt là hạnh phúc cho bất cứ ai khi sống trên cuộc đời này. Tuy nhiên, không phải ai cũng có may mắn đó. Trong trường hợp tìm mãi mà vẫn không gặp bạn hiền, thì cần phải suy ngẫm thêm từ những lời dạy của Đức Phật trong kinh Tiểu Bộ: Nếu không được bạn lành/ Thận trọng và sáng suốt/ Bạn đồng hành chung sống/ Bạn thiện trú hiền trí/ Hãy như vua từ bỏ/ Ðất nước bị bại vong/ Hãy sống riêng một mình/ Như tê ngưu một sừng(11). Sống một mình tuy cũng buồn và bất tiện về nhiều mặt, nhưng thực ra vẫn còn tốt hơn khi sống chung với người không tốt. Mặt khác, sống riêng một mình vẫn là một cơ hội để bạn trải nghiệm cảm giác tự chủtự do như con tê ngưu một sừng, tự tại bình yên giữa chốn rừng xanh.

Kế đến, tìm bạn để chơi vốn là điều khó và càng khó hơn để nhận ra đâu là người bạn tốt để đặt niềm tin tưởng, sẻ chia. Để thiết lập một tình bạn đúng nghĩa và chân thành, chúng ta đừng để cái vỏ hào nhoáng của hình thức bề ngoài chi phối. Vì lẽ, vẻ bề ngoài chưa thể phản ánh đúng giá trị đích thực của một con người. Không phải do sắc tướng/ Biết rõ được con người/ Không phải nhìn thoáng qua/ Ðặt được lòng tin cậy/(12). Từ việc biết bạn, hiểu bạn đến tin bạn là cả một quá trình dài. Trong quan hệ bạn bè, niềm tin là một yếu tố quan trọng, bởi lẽ niềm tin là một trong những cơ sở của đạo đức. Xã hộiniềm tinxã hộiđạo đức, bạn bè có niềm tin thì tình bạn mới vững bền. Tuy nhiên, niềm tin muốn đặt đúng chỗ, đúng người, là điều cần phải cân nhắc, cần phải có sự thẩm sát của lý trí, trí tuệ. Hiểu bạn để rồi tin bạn, là một trong những yêu cầu bắt buộc để có được một tình bạn vững bền. Vì lẽ, khi chơi với bạn nhưng không hiểu bạn thì tình bạn đó có nguy cơ tan rã rất cao.

Thứ ba là sự tương ưng, mà nghĩa gần nhất là giống nhau, cùng chung nhau, tương tự như nhau. Ở đây, nghĩa rộng nhất liên hệ đến thuật ngữ Phật học gọi là đồng sự13, giữ một vai trò quan trọng cho một tình bạn vững bền. Tiêu chuẩn tương ưng đặt ra ở đây là tương ưng về nhận thức, tương ưng về đạo đức, tương ưng về nghiệp lựctương ưng trong việc phóng xả, vị tha(14).

Trước hết, sự tương đồng về nhận thức, về tri thức, về kiến giải là cửa ngõ để tạo nên một sự thấu hiểu, cảm thông giữa hai người. Nhận thức, tri thức ở đây không hẳn là sự thông minh, sáng tạo mang tính trường lớp. Nhận thức, tri thức ở đây cần được hiểu như là sự hiểu biết nhất định, có thể do học tập, có thể do tự rèn luyện về một hoặc nhiều lãnh vực nào đó của đời sống. Không tương đồng về nhận thức, tri thức là mấu chốt tạo ra mọi sự khập khiễng ở tất cả các mối quan hệ.

Bên cạnh sự thấu hiểu, cảm thông, một người bạn hiền cần phảiđức hạnh tốt. Đức hạnh là sự tự chế ngự, tự kiểm soát bản thân mình, tuân hành những nguyên tắc sống đem đến sự an lạc cho mình cũng như cho người. Đức hạnh được ví như tài sản riêng có của một con người mà không có thể quy đổi và tạo ra một sắc thái, hấp lực riêng trong mắt của bạn bè.

Sự tương ưng tiếp theo là sự tương ưng về hành nghiệp. Những người có cùng sở thích, cùng đam mê, cùng xu hướng dễ gần gũi nhau hơn. Đây là một trong những yếu tố đáng lưu tâm để xây dựng một tình bạn tốt đẹpbền vững.

cuối cùng, đức tính hào phóng, hỷ xả, vị tha là một trong những tố chất để xây dựng một tình bạn tốt đẹp. Sẽ rất bất hạnh cho một tình bạn nếu như người kia chỉ biết có bạn và có mình. Sống phóng xả, vị tha là chất liệu cần có của một tình bạn đẹp. Vì lẽ, tính phóng xạ, vị tha còn được xem là một trong liên hệ gần với bốn đức tính tối quan trọng mà Phật giáo gọi là Bốn tâm vô lượng.

Lưu ý cuối cùng, lựa bạn mà chơiquan niệm thường tình trong nhân gian. Quan niệm đó thật đúng khi được soi rọi bằng ánh sáng tuệ giác từ kinh điển: Người gần kẻ hạ liệt/ Rồi cũng bị hạ liệt/ Thân cận người đồng đẳng/ Ðược khỏi bị thối đọa/ Ai gần bậc thù thắng/ Mau chóng được thăng tiến/ Do vậy hãy sống chung/ Bậc ưu thắng hơn mình15. Có một lưu ý nhỏ từ đoạn kinh văn trên. Vì trong khi thiết lập quan hệ bạn bè, nếu như ai cũng chọn đối tượng hơn mình về tất cả các mặt, thì thử hỏi người ưu việt kia, làm sao có thể bằng lòng chọn một người thấp hơn mình để mà chơi được? Vả lại, với người thấp kém kia, mãi mãi không có khả năng vươn lên vì không ai dám kết bạn cùng họ? Cần phải thấy rằng, bạn bè là sự tổng hòa đồng điệu của những yếu tố ngang bằng nhau, giống nhau và bình đẳng như nhau về một hoặc nhiều phương diện. Nếu quá cách biệt nhau thì chưa thể gọi là quan hệ bạn bè mà có thể rơi vào những dạng quan hệ khác, đan xen nhau trong cuộc sống này. Chính vì vậy mà ta có thể thấy người hạ liệt vẫn có bạn hạ liệt và kẻ thanh cao vẫn có bạn thanh cao. Ở đây, tính tối ưu tối thắng của người cần được hiểu rằng: tuy đồng chất, đồng hàng với nhau, nhưng trong mỗi con người, ai cũng có những giá trị tích cực riêng có. Thấy được điều ưu thắng đó từ bạn bè và nỗ lực học tập, là tâm thế tích cực của một tình bạn tốt. Nói rõ hơn, bạn bè ai cũng có những điều hay, là bạn tốt, cần phải học những điều hay từ bạn bè để tự mình hoàn thiện.

Cuộc đời có bao nhiêu mối quan hệ thì có bấy nhiêu dạng bạn bè. Mặc dù trong mỗi mối quan hệ bạn bè hiện hữu nhiều tính chất khác nhau. Thế nhưng hai tính chất căn bảnthen chốt, có mặt hầu hết trong các mối quan hệ bạn bè, đó là bạn tốt và bạn xấu. Bạn xấu thì phong phú đa dạng và hầu như khó có thể liệt kê ra hết. Bạn tốt thì ít và khó phát hiện.

Trong thời đại ngày nay, khi những giá trị đạo đức căn bản của đời sống con người đang rung lên những hồi chuông báo động, thì những chất liệu biểu trưng cho một tình bạn tốt, được thể hiện trong kinh Giáo thọ thi ca la việtchúng ta vừa khảo sát ở trên, vẫn mang tính thời sự hơn bao giờ hết. Thực tế đó, một lần nữa xác tín rằng, những chân lý trong giáo pháp của Đức Phật, dù liên hệ đời thường, nhưng tất cả đều chiếu sáng rực rỡ khi được khám phá ra(16). 

 

(1) Kinh Tăng Chi, chương Năm pháp, phẩm Du hành dài, kinh Du hành dài: Có năm điều nguy hại, này các Tỷ-kheo, cho người sống du hành dài, du hành không có mục đích. Thế nào là năm? Không nghe điều chưa được nghe; không làm cho thanh tịnh điều đã được nghe; có sợ hãi một phần điều đã được nghe; cảm xúc bệnh hoạn trầm trọng; không có bạn bè.

(2)  Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, kinh Trường Bộ, tập 2, Kinh giáo thọ thi ca la việt. Nxb. TP. HCM, 1991, tr 539

(3) Kinh Trường Bộ, Sđd, đoạn 22

(4) Kinh Trường Bộ, Sđd, đoạn 23

(5) Kinh Trường Bộ, Sđd, đoạn 24

(6) Kinh Trung Bộ, tập 2, kinh số 97, kinh Dhananjani.

(7) Kinh Tăng Chi, chương Năm pháp, phẩm Hiềm hận: “Tôi sẽ nói đúng thời, không phải phi thời”; “Tôi sẽ nói chơn thật, không phải phi chơn thật”; “Tôi sẽ nói nhu hòa, không phải thô bạo”; “Tôi sẽ nói lời liên hệ đến lợi ích, không phải lời không liên hệ đến lợi ích”; “Tôi sẽ nói với từ tâm, không phải với sân tâm”.

(8) Kinh Tiểu Bộ, kinh Tập, kinh Điềm lành lớn (kinh Đại hạnh phúc - Maha Mangala Sutta)

(9) Kinh Trường Bộ, Sđd, đoạn 25.

(10) Kinh Tăng Chi, chương Tám pháp, kinh Tùy chuyển thế giới. Nguyên văn: Lợi dưỡng và không lợi dưỡng, danh vọng và không danh vọng, tán thánchỉ trích, lạc và khổ.

(11) Kinh Tiểu Bộ, kinh Tập, phẩm Rắn, kinh Con tê ngưu một sừng.

(12) Kinh Tương Ưng, tập 1, Thiên có kệ, chương Ba, Tương ưng Kosala, phẩm thứ hai, Bện tóc

(13) Kinh Tăng Chi, chương Bốn pháp, phẩm Bánh xe, kinh Nhiếp pháp.

(14) Xem thêm, kinh Tăng Chi, chương Bốn pháp, phẩm Nguồn sanh phước, kinh Xứng đôi. Nguyên văn: cả hai người là đồng tín, đồng giới, đồng thí, đồng trí tuệ.

(15) Kinh Tăng Chi, chương Ba pháp, phẩm Người, kinh Cần phải thân cận.

(16) Xem thêm, kinh Tăng Chi, chương Ba pháp, phẩm Kusinara, kinh Che giấu.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22454)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21730)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23307)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21148)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21739)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22201)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23591)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20386)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20026)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21914)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24708)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18949)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30936)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23950)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27742)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26484)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38075)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18788)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18404)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19899)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 18980)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23119)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22885)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18679)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15819)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18812)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19620)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20126)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19910)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18094)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16398)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16892)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39169)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26016)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20073)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18795)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24028)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29078)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22888)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30900)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20988)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26818)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20633)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26213)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23292)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19793)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15793)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19804)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28917)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20640)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19384)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30430)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36372)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33168)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35494)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20934)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21894)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25229)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25759)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31220)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant