Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thông Điệp của Bồ Tát Địa Tạng Qua Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện

11 Tháng Tám 201100:00(Xem: 33226)
Thông Điệp của Bồ Tát Địa Tạng Qua Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện

Thông Điệp của Bồ Tát Địa Tạng
Qua Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện

Tâm Hà Lê Công Đa

"Từ nay đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi vì những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng đó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật đạo".
Phát nguyện của Bồ Tát Địa Tạng -Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện.

Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện là một bộ kinh nói về công đức, oai lực của Bồ Tát Địa Tạng thường được các chùa chiền tự viện tại các quốc gia theo khuynh hướng Đại Thừa khai tụng trong suốt tháng bảy, đặc biệt là vào dịp lễ Vu Lan, tức là mùa báo hiếu cha mẹ, tổ tiên theo truyền thống của người con Phật. 

Bộ Kinh này đã được Hoà Thượng Trí Tịnh dịch từ Hán Tạng ra tiếng Việt.

Lý Do Ra Đời Của Kinh Địa Tạng.

Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện được mở đầu bằng câu nói quen thuộc của Ngài A Nan: "Ta nghe như vầy", có nghĩa là bộ Kinh này đã được Ngài A Nan ghi nhớ lại lời Phật giảng dạy và sau đó truyền tụng cho đại chúng. Ngay điểm mở đầu này có thể tạo nên một số nghi hoặc đối với đại chúng nhất là những người có một số hiểu biết về lịch sử Phật giáo, vì ai cũng biết rằng Ngài A Nan chỉ đắc quả A La Hánđạt được thần thông sau khi Phật nhập diệt, chỉ vài giờ trước khi Ngài Ma Ha Ca Diếp triệu tập Đại Hội tăng già kết tập kinh điển lần thứ nhất. Như vậy, với tư cách là một phàm tăng, người ta tự hỏi, làm sao ngài A Nan có thể đi cùng với Phật lên cung trời Đao Lợi để nghe Phật thuyết pháp? Tuy nhiên, để giải tỏa mối nghi ngờ này, ta nên hiểu rằng, trước khi nhận làm thị giả chính thức cho Đức Phật, Tôn giả A Nan đã ra 8 điều kiện và được Phật chấp nhận, trong đó điều kiện thứ tám nêu rõ: "Nếu Đức Thế Tôn thuyết pháp trong lúc A Nan Đa vắng mặt, thì ông xin Đức Bổn Sư lặp lại bài pháp ấy cho ông nghe".

Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện do Đức Phật Thích Ca diễn nói tại cung trời Đao Lợi, tức là từng trời thứ hai trong sáu từng trời của cõi Dục giới nơi mà Thánh Ma Gia, thân mẫu của Đức Phật đã thác sanh về đây sau khi hạ sanh Đức Phật được 7 ngày. Trước khi nhập Niết Bàn, vì cảm ơn đức sanh thành, Đức Phật đã diễn nói kinh Địa Tạng tại pháp hội ở cung trời này. Như vậy, Kinh Địa Tạng ra đời trước tiên là do lòng hiếu thảo của Đức Phật đối với bậc sanh thành, Ngài đã tưởng nghĩ đến mẹ khi biết rằng mình sẽ không còn trụ thế bao lâu nữa nên đã lập pháp hội tại cung trời Đao Lợi để độ thoát cho thân mẫu.

Đây là một pháp hội vô cùng quan trọng vì có sự hiện diện đông đủ của chư Phật khắp mười phương thế giới, chư Đại Bồ Tát như Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền... cùng các chúng Trời, Rồng, Quỉ, Thần khắp các cõi. Diễn nói kinh Địa Tạng trong pháp hội này vì thế mang một ý nghĩa vô cùng lớn lao. Là bậc Cha lành trong bốn cõi, không một việc làm nào dù nhỏ hay lớn mà Đức Thế tôn lại không nghĩ đến lợi lạc của tất cả pháp giới chúng sanh. Trong pháp hội này Ngài vì thân mẫuthuyết pháp nhưng động cơ chính vẫn là lòng từ bi lân mẫn đối với chúng sanhcõi ta bà, đặc biệt đối với những chúng sanh cang cường đầy tội khổ, khó khai hóa mà Ngài biết chắc chắn là sẽ "bị đọa vào đường dữ chịu nhiều sự thống khổ", vì thế trong pháp hội này Ngài đã phó chúc cho Bồ Tát Địa Tạng nhiệm vụ "gắng độ chúng sanh trong cõi Ta bà đến lúc Phật Di Lặc ra đời, đều đặng giải thoát, khỏi haün các điều khổ, gặp Phật, được Đức Phật thọ ký". (Quyển Thượng - Phẩm Thứ Hai: Phân Thân Tập Hội).

Như vậy nội dung chính yếu của Kinh Địa Tạng xoay quanh chữ Hiếu, nói lên những bổn phận, nghĩa vụ của người sống đối với người đã qúa vãng, cũng như nêu bật những tội phúc quả báo ở kiếp sống bên kia để người Phật tử nương theo kinh này cùng dựa vào oai lực độ trì, gia hộ của Bồ Tát Địa Tạng để tu tập, hầu độ thoát cho chính mình, cho người thân cũng như tất cả chúng sanh đã quá vãng khỏi rơi vào con đường ác.

Hành TrạngĐại Nguyện của Bồ Tát Địa Tạng

Bồ Tát Địa Tạng là nhân vật như thế nào mà lại được Đức Phật giao phó một trọng trách lớn lao và khó khăn như thế?

Bồ Tát Địa Tạng là một vị Đại Bồ Tát thường được nhắc nhở đến trong rất nhiều kinh điển Đại thừacông năng, oai lực của vị Bồ Tát này vô cùng lớn lao. Nếu chúng ta tôn xưng Đức Từ PhụTa Bà Giáo chủ thì Bồ Tát Địa Tạng cũng đã được tôn xưng như là vị U Minh Giáo Chủ, tức là người tiếp trợ, giúp đỡ các chúng sanhthế giới bên kia, tức là cõi âm. Ngài là nơi nương tựa, nguồn an ủi của những oan hồn vất vưởng không nơi nương tựa đến những linh hồnác nghiệp bị giam giữ và trừng phạt tận các tầng địa ngục. Tên gọi của Ngài cũng đã mang một ý nghĩa như thế. Địa là đất cũng có nghĩa là dày chắc, Tạng là cất giấu, chứa đủ. Danh hiệu của Ngài hàm ý rằng Ngài là đại địa bao la, nơi ẩn chứa những kho tàng quý giá, tức thiện căn. Địa Tạng vì thế như là hình ảnh của một người mẹ thiên nhiên ôm ấp, bảo bọc, che chở tất cả muôn loài không phân biệt. Chẳng thế mà Đức Thế Tôn đã lên tiếng tán dương: "Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn."

Bồ Tát Địa Tạng đã đạt đến quả vị này là do một phát tâm từ bi dõng mãnh muốn cứu vớt tất cả những khổ đau của chúng sanh, đặc biệt là những chúng sanh đang chịu khổ nạn trong địa ngục, được huân tập qua một quá trình tu tập trải qua hằng hà sa số kiếp, trong đó một vài kiếp nổi bật đã được Đức Phật nhắc lại trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện như sau:

  • Vị Trưởng giả dưới thời Phật Sư-Tử Phấn-Tấn Cụ-Túc Vạn -Hạnh Như-Lai: Trong kiếp này Ngài là một vị Trưởng giả, đã lập nguyện độ thoát tất cả chúng sanh bị khốn khổ mới chứng thành Phật đạo
  • Hiếu nữ Bà La Môn dưới thời Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật: Trong kiếp này Ngài là một thiếu nữ Bà La Môn hết lòng sùng kính Tam Bảo nhưng bà mẹ lại là một người mê tín tà đạo khinh chê Tam Bảo. Vì ác nghiệp này mà sau khi chết bà đã bị đọa vào địa ngục vô gián. Tuy không biết mẹ mình thác sanh về nơi nào nhưng Thánh nữ biết rằng với những tội lỗi mà bà đã gây ra, chắc chắn sẽ bị đọa vào con đường ác. Là một người con hiếu thảo, đau lòngthương nhớ mẹ, Thánh nữ đã tu tạo phước lành và cầu khẩn oai lực của Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật giúp đỡ. Nhờ đó mà thân mẫu của bà chẳng bao lâu sau đã được vãng sanh lên cõi trời. Từ đây Thánh nữ lập nguyện: "Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát." 
  • Vị tiểu vương dưới thời Phật Nhất-Thiết-Trí Thành-Tựu Như-Lai: Trong kiếp này Ngài là quốc vương của một nước nhỏ, thương yêu dân như con, luôn thực hành mười hạnh lành làm lợi ích cho nhân dân. Tuy nhiên dân chúng của vương quốc này tánh tình rất ngang ngược, hung ác. Do đó Ngài đã phát nguyện rằng: "Nếu chưa độ hết những chúng sanh tội khổ đều đặng an vui chứng quả Bồ-Đề, thời tôi nguyện chưa thành Phật." 
  • Hiếu nữ Quang Mục dưới thời Phật Thanh-Tịnh Liên-Hoa-Mục Như-Lai: Cũng như câu chuyện của Thánh nữ Bà La Môn, Quang Mục là một thiếu nữ rất hiếu thảo đối với mẹ. Sau khi mẹ mất, nàng băn khoăn không biết mẹ mình nay đã thác sanh về đâu. Nhờ lòng hiếu thảocông đức cúng dường một vị La Hán đầy phước đức, Quang Mục biết được mẹ đang chịu khổ nạn tại địa ngục do hai tội ác giết hại sanh vật và chê bai mắng nhiếc người khác gây ra lúc còn tại thế. Do phước lực của nàng và oai lực của Phật Thanh-Tịnh Liên-Hoa-Mục Như-Lai, bà mẹ sau đó đã phải trở lại đầu thai vào làm con của người đầy tớ trong nhà Quang Mục chịu kiếp hạ tiện cho đến năm 13 tuổi mới được vãng sanh về cõi trời. Nàng Quang Mục vì thương mẹ mà đã phát nguyện rộng lớn như sau: 
  • "Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm ngàn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo : địa ngục, súc sanh, và ngạ quỉ, v.v...
  • Những kẻ mắc phả tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới trở thành bậc Chánh Giác."
  • Đức Thế Tôn đã vì mẹ mà tìm đến cung trời Đao Lợi. Tôn giả Xá Lợi Phất trước khi biết mình sắp nhập Niết Bàn đã quay về mái nhà xưa để độ thoát cho mẹ già. Trong những câu chuyện về tiền kiếp của Bồ Tát Địa Tạng được Đức Phật nhắc lại ở trên, hai hình ảnh nổi bật nhất vẫn là hai thiếu nữ hiếu thảo hết lòng cứu mẹ. Chữ Hiếu như thế, rất quan trọng trong đạo Phật. Biết thương yêu mẹ mới biết thương yêu chúng sanh. Hiểu được những nỗi khổ mà mẹ đang chịu đựng mới có thể hiểu được những nỗi khổ của chúng sanh. Từ đó mới phát đại nguyện cứu vớt chúng sanh. Phật, Bồ Tát, Thánh Tăng khi đã chia sẻ kiếp người, cũng chia xớt với chúng ta những tình cảm như thế, cho nên chúng ta, những người con Phật, những hiếu tử, có ai nghĩ về mẹ mà không nước mắt rưng rưng? Nhưng làm thế nào để giúp mẹ, để cứu vớt những người thân trong lúc lâm chung hay đã qua đời? Kinh Địa Tạng cùng với công năng, oai lực của Bồ Tát Địa Tạng sẽ giúp ta thực hiện được điều đó.

    Công Năng, Oai Lực của Bồ Tát Địa Tạng
    Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện

    Công năng, oai lực của Bồ Tát Địa Tạng bao trùm khắp ba cõi Trời, Người và cõi âm. Nói theo danh từ nhà Phật, oai lực đó là không thể nghĩ bàn. Riêng trong cõi thế gian này, Đức Thế Tôn qua Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện đã cho chúng ta biết rằng bất cứ chúng sanh nào hoặc được nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát rồi chí tâm quy y hoặc cúng dường, chiêm ngưỡng, tô vẽ hình tượng, đảnh lễ Bồ Tát, chắc chắn sẽ đạt được những lợi ích lớn lao sau đây:

    1. Lợi ích trong cuộc sống hiện tại:

    •  
      • Những nguyện lớn mau chóng thành tựu: Những ước muốn mong cầu trong đời hiện tại hoặc vị lai, chắc chắn sẽ được thành tựu. Tất cả những ai phát nguyện lớn lao, muốn cứu độ chúng sanh, muốn đạt đạo quả Bồ đề đều được oai lực của Bồ Tát trợ giúp để đạt thành ý nguyện. 
      • Được trí huệ lớn: Đối với những người kém trí nhớ, nghe rồi quên, kinh điển đọc tụng bao nhiêu lần cũng không nhớ nỗi, Phật dạy nên dùng một chén nước trong để trước tượng Bồ Tát một ngày một đêm rồi chí tâm cung kính quay mặt về phương nam thỉnh nước này để uống, sau đó phải kiêng cử rượu thịt, các thứ hành, hẹ, tỏi... giữ gìn 5 giới trong vòng 7 hoặc 21 ngày sẽ thấy hiệu nghiệm
      • Tai Nạn Tiêu Trừ : Tất cả những ai luôn bị tai vạ theo đuổi, thân luôn mang tật bệnh, gia đạo không an, người thân ly tán... Nếu chuyên tâm trì tụng danh hiệu của Bồ Tát từ một muôn biến trở lên, tất cả mọi hoạn nạn sẽ dần dần được tiêu trừ
      • Thoát khỏi hiểm nguy: Nếu gặp cảnh ngộ phải xông pha vào chốn hiểm nguy, trước khi ra đi chuyên tâm niệm danh hiệu của Bồ Tát trên một muôn biến, sẽ thoát khỏi khổ nạn hiểm nguy. 
      • Tiêu tội chướng, bệnh tật: Những người bị bệnh thập tử nhất sinh, nằm liệt giường, sống dở chết dở, đó là do nghiệp-đạo luận tội chưa đi đến quyết định dứt khoát nên khó chết cũng như khó lành. Trong lúc này người thân nên dùng tài sản, vật qúy của người bệnh tô vẽ hình tượng, cúng dường Bồ Tát rồi báo cho người bệnh biết cũng như trì tụng kinh này thì người đó vì nghiệp báo mà phải mang lấy bệnh nặng sẽ được hết bệnh, sống lâu, còn như nếu hết nghiệp lúc chết các nghiệp chướng sẽ được tiêu trừ, không còn bị đọa vào ba đường ác mà sẽ được vãng sanh về cõi Trời
      • Được quỉ thần hộ vệ: Những người cung kính đảnh lễ, dùng các hình thức văn mỹ nghệ ca ngợi Bồ Tát Địa Tạng, khuyến khích những người khác cùng làm theo như thế, trong đời này cũng như ở những kiếp sau, họ sẽ được trăm nghìn quỉ thần luôn theo hộ vệ ở bên mình, không còn bị mắc vào những tai họa nữa.
    2. Lợi ích cho kiếp sau:
    •  
      • Thoát khỏi nữ thân: Những người nữ nào không muốn mang thân gái ở kiếp sau, hàng ngày thành kính cúng dường, chiêm ngưỡng, đảnh lễ Địa Tạng Bồ Tát sẽ được như ý nguyện. 
      • Được thân xinh đẹp: Những người nữ hiện tại mang thân hình xấu xí, hay ốm đau bệnh tật trong những kiếp tới sẽ được thân hình xinh đẹp, sinh vào nơi quyền qúy cao sang nếu cung kính đảnh lễ, trì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng
      • Thoát kiếp nô lệ: Những người sinh ra trong kiếp tôi đòi, nô lệ nếu thành tâm trì tụng danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng liên tiếp trong 7 ngày, đủ một muôn biến, kiếp tới sẽ không còn sinh vào nơi hạ tiện nữa. 
    3. Lợi ích trước phút lâm chung.

    Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện có thể xem là một quyển kinh gối đầu giường, một cuốn chỉ nam cho người Phật Tử khi phải đối diện hoàn cảnh một người thân yêu của mình sắp mạng chung. Đây là giây phút hệ trọng nhất của một linh hồn sắp giã từ cõi thế, khi mà tất cả những ham muốn, dục vọng của cả một đời người tích tụ lại thành một năng lực quyết định cho hướng đến của kiếp tương lai. Giống như sĩ tử trong kỳ thi cuối cùng, đây chính là thời điểm thử thách, cân lường thiện nghiệp, ác nghiệp của một đời người trước khi chuyển kiếp. Trong lúc này, Đức Thế Tôn cho ta biết, "thần thức của người chết đang hôn mê, mờ mịt, những quỉ thần, ma đạo đôi lúc còn biến hình ra cha mẹ, những người thân thuộc để lôi kéo họ vào ác đạo, ngay cả đối với những người đã tạo nghiệp lành trong hiện thế." (Quyển Trung-Phẩm Thứ Tám- Các Vua Diêm La Khen Ngợi). Cho nên vai trò của người thân lúc này rất quan trọng. Họ phải ở bên cạnh người sắp lâm chung, liên tục trì tụng danh hiệu Phật, Bồ Tát làm sao cho lọt được vào lỗ tai người chết, như vậy các ma quỉ, ác thần mới lui tan đi chỗ khác.

    Đức Phật cũng cho biết những công việc cần làm của thân nhân trong suốt 49 ngày khi linh hồn người chết đang còn vất vưởng, luôn trông ngóng thân quyến cốt nhục tu tạo phước đức làm hành trang, vốn liếng cho họ được nhẹ bước siêu linh. Nỗ lực chính yếu của thân nhân trong thời gian này nên được thể hiện bằng những hành động tích cực như không được giết hại sinh vật, cúng tế thần linh, ma quỉ. Sau 49 ngày thì người chết sẽ tùy theo nghiệp mà nhận lấy quả báo.

    Có lẽ quyển "Tạng Thư Sống Chết" của Phật Giáo Tây Tạng là quyển sách diễn tả một các khá rõ ràng về những giai đoạn biến chuyển của thần thức -hay thân trung ấm (bardo) con người từ giây phút lâm chung cho đến 49 ngày sau đó, phù hợp với giáo lýĐức Phật đã diễn nói trong kinh Địa Tạng. Trong phần "Các cảnh báo trước nơi tái sanh" tác giả cho biết: "Những người nào phải sanh vào địa ngục sẽ nghe những tiếng như những lời than vãn và sẽ bị bắt buộc phải đi vào một cách không cưỡng lại được. Sẽ hiện ra những khoảng tối mù mịt, những ngôi nhà màu đen và trắng, những lỗ đen ngòm trong đất, những con đường tối om mà người ta sẽ phải đi theo. Bước vào đó là người ta vào địa ngục và sẽ phải đau khổ vì qúa nóng, qúa lạnh... và sẽ phải chịu đựng lâu dài mới ra khỏi được". Bởi vậy, đối với người đang hấp hối, sự hiện diện bên cạnh của vị bổn sư hay của một vị thiện trí thức mà đương thời người hấp hối kính trọng, tin tưởng, đọc tụng cho họ những bổn kinh hay trì niệm hồng danh chư Phật, chư Bồ Tát, cụ thểBồ Tát Quán Thế Âm hay Bồ Tát Địa Tạng -hoặc vị Bồ Tát nào mà lúc sinh thời người đó đã chọn thờ kính làm vị Đại sư của mình -tương tự như vị thánh bổn mạng của người Thiên chúa giáo- sẽ giúp ích lớn lao cho người chết được mau chóng siêu thăng về cõi Phật.

    4. Lợi ích đối với người quá vãng

    - Siêu độ vong linh: Tại sao trong giấc ngủ ta nằm mơ thấy ma quỷ, hoặc hình ảnh những người lạ tạo cho ta những ấn tượng lo buồn, hoặc kinh sợ đến đổi phải thở than, khóc lóc hoặc kinh hoảng trong giấc mơ? Đức Phật giải thích cho ta biết đó là do linh hồn những thân quyến của ta đã chết trong kiếp này hay những kiếp trước bị đọa vào ác đạo nên tìm đến ta để mách bảo hy vọng rằng vì tình cốt nhục ta sẽ tìm cách giúp họ thoát ra khỏi con đường ác đạo.

    Để giúp cho những vong linh này được siêu độ, Phật dạy ta nên chí tâm đảnh lễ trước hình tượng của chư Phật hay Bồ Tát rồi tự mình đọc tụng kinh này hoặc nhờ người khác đọc tiếp từ 3 đến 7 biến tức thời những linh hồn thân quyến kia sẽ được giải thoát không còn hiện về trong giấc mơ nữa.

    - Gặp lại người thân đã quá vãng: Những người nào gặp cảnh cha mẹ mất sớm từ lúc vừa mới sanh ra cho đến trong vòng mười tuổi, hoặc có anh chị em, quyến thuộc đã qua đời, sau này khi họ lớn lên, nhớ tưởng đến những người đã quá vãng, không biết thác sanh về đâu, trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, Phật dạy rằng hễ cứ mỗi lần nghe danh hiệu hoặc chiêm ngưỡng hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng thì cung kính đảnh lễ một lần trong suốt một ngày đến 7 ngày, những thân quyến quá vãng dù có bị đọa vào ác đạo cũng được siêu thăng lên cõi Trời. Nếu thực hiện công hạnh này đủ 21 ngày và trì tụng một muôn biến danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng sẽ được Ngài hiện về trong giấc mơ mách bảo cho biết nơi thác sanh hoặc Ngài sẽ dẫn đến tận nơi để gặp lại người thân đã qua đời.

    Quan Niệm Về Địa Ngục, Tội Phước Nghiệp Báo
    Trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện

    Có thể xem Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện là quyển kinh nói rõ nhất về thế giới bên kia -tức cõi âm-, về địa ngục và những trừng phạt, về tội phước và nghiệp báo.

    1. Về địa ngục:

    Một vấn nạn mà các triết gia Đông Tây thường nêu ra để tìm lời giải đápsau khi chết thần thức, tức linh hồn của con người sẽ đi về đâu? Phải chăngcõi địa ngục hiện diệnthế giới bên kia và nếu có qua đó những kẻ gây ác nghiệp sẽ bị trừng phạt như thế nào?

    Câu trả lời của Phật giáo rất rõ ràng. Trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, Đức Phật đã trả lời dứt khoát cho ta biết là có địa ngục và có sự trừng phạt. Ngài chỉ rõ rằng những người sinh ra trong đời này hoặc mang kiếp nghèo hèn,hoặc gia đình quyến thuộc kình chống nhau, hoặc thân hình xấu xí tàn tật, đui, điếc, câm ngọng, không lưỡi, miệng lở, điên cuồng mất trí, chết yểu,... hoặc sinh làm chim chóc, súc sanh... đều là những chúng sanh đã tạo ác nghiệp từ thân khẩu ý từ những kiếp trước, sau khi chịu qủa báo ở đời này, nếu không tu tập, họ sẽ còn tiếp tục bị "đọa vào địa ngục trải qua nhiều kiếp không lúc nào thoát khỏi". 

    Ta tin lời Phật dạy là có địa ngục, nhưng địa ngục đó như thế nào? Để trả lời những thắc mắc của Thánh mẫu Ma-Gia cũng như Bồ Tát Phổ Hiền nêu ra trong pháp hội, Bồ Tát Địa Tạng đã tóm lược ra cho ta biết tất cả những loại địa ngục, qua đó nạn nhân phải nhận chịu những hình thức trừng phạt hết sức kinh khủng bởi những khí cụ tra tấn ghê rợn trong từng các loại địa ngục, mà trong đó nặng nề nhất là địa ngục Vô Gián. Đọc đến đoạn kinh này, những người mang tinh thần duy lý có thể sẽ nêu nghi vấn, đặt vấn đề: Con người chỉ cảm nhận được đau đớn khi có xác thân, nhưng sau khi chết rồi, xác thân tan rả thì những hình phạt, tra tấn đâu có tác dụng gì nữa, như vậy phải chăng địa ngục chỉ là sự hù dọa của tôn giáo đối với những kẻ yếu bóng vía? Ta hãy xem Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện giải thích như thế nào về vấn đề này.

    Địa ngục là gì? Trả lời Bồ Tát Phổ Hiền, Ngài Địa Tạng nêu rõ: "Đó là do chúng sanh trong cõi Diêm-Phù-Đề làm những điều ác mà tùy nghiệp chiêu cảm ra những địa ngục như thế" và ngay cả các khí cụ tra tấn cũng được giải thích, "Khí cụ là do các hạnh nghiệp quấy ác của chúng sanh mà cảm vời ra." (Quyển Thượng - Phẩm Thứ Năm: Danh Hiệu của Địa Ngục). Thiết tưởng câu trả lời trên đây đã diễn tả đầy đủ ý nghĩa về địa ngục. Địa ngục hiện hữu là do nghiệp của mỗi chúng sanh mà CẢM ra. Có lẽ phải cần một cuốn sách hay nhiều cuốn sách mới giải thích một cách đầy đủ quan niệm "tùy nghiệp chiêu cảm", tuy nhiên để có thể hình dung một cách cụ thể thì nếu ta gây nghiệp ác, linh hồn ta sẽ không ngớt bị dày vò, chịu trừng phạt đau đớn sau khi chết giống như ta đang sống trải qua một cơn ác mộng. Trong ác mộng, tuy xác thân ta không bị hành hạ nhưng ta cũng cảm thấy đau đớn, lo lắng, kinh hải, ta cũng rên la than khóc, đổ mồ hôi hột trước những sự khủng khiếp mà ta đang chịu đựng trong giấc mơ; nhưng may mắn cho ta, thần thức ta có chỗ dựa là xác thân, khi sự kinh khủng lên đến cao độ ta tỉnh mộng và tìm được lối thoát. Nhưng sau khi chết, linh hồn ta sẽ không còn chỗ dựa, ta không còn lối thoát nào nữa, cơn ác mộng do đó sẽ kéo dài bất tận do những nghiệp ác gây nên, cho đến khi nào nghiệp ác tự tiêu diệt hoặc ta được những nguyện lực có khả năng cứu rổi ta siêu thoát qua cảnh giới khác.

    Hiểu Địa ngục như thế để thấy cảm thương cho cha mẹ, thân quyến của ta, của tất cả chúng sanhnghiệp ác phải trả trong địa ngục, để hướng từ bi tâm của ta nguyện cầu cho họ mau chóng siêu thoát hoặc tích cực hơn, trì tụng kinh Địa Tạng Bổn Nguyện để nhờ oai lực của Bồ Tát cứu vớt họ đến những cảnh giới an lạc.

    • Vấn đề tội phước nghiệp báo:
    Khi ta tin có Địa ngục tức là ta tin có vấn đề tội phước nghiệp báo, trong kinh Địa Tạng bổn nguyện Đức Thế Tôn đã cho ta biết như thế. Mọi việc xảy ra ở trên đời này không có gì là ngẫu nhiên. Ta như thế nào trong kiếp sống hiện tại là kết qủa của nghiệp báo gây ra từ những kiếp trước. Chính nghiệp -tốt hay xấu- của một người gây ra do thân, khẩu, ý trong đời này lại sẽ là lực quyết định tương lai cho những kiếp tới của cá nhân đó mà không là gì khác. Nghiệp là một nhà phán quan vô tư không sai chạy. Hay ta có thể hình dung ra nghiệp như là một nhà kế toán với phương tiện điện toán hiện đại nhất mà tất cả những hành động tốt xấu của ta xảy ra sẽ được nó lưu trữ vào bộ nhớ (memory) không sót một chi tiết nào. Đến giờ lâm tử, nó mới bắt đầu giở sổ sách ra để tính toán với ta. Từ đó cánh cửa mở ra để ta bước vào cõi Phật, cõi Trời, hoặc đầu thai trở lại làm người, làm súc sanh, hay đi về địa ngục...

    Vấn đề luân hồi, tái sinh ngày nay không còn là một vấn đề siêu hình, trừu tượng nữa mà đã trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học thực nghiệm. Hàng ngàn trường hợp đã được kiểm chứng một cách khoa học và được phổ biến qua báo chí, sách vở. Ba nhà tiên phong trong lãnh vực này là Bác sĩ Ian Stevenson nguyên Giáo sư Đại học Y Khoa Louisiana State University, Trưởng khoa Thần kinh Trường Đại học Y Khoa University of Virginia; Tiến sĩ Bác sĩ Raymond Moody, Jr., thường trú tại bệnh viện Đại học Y Khoa University of Virginia và đặc biệtBác sĩ Nha Khoa Bruce Goldberg, hiện có phòng mạch tại Los Angeles, CA đã dùng "Thôi miên trị liệu pháp" (Hypnotherapy) để cho bệnh nhân nhớ lại tiền kiếp. Trường Đại học Y Khoa Florida, Hoa Kỳ, đã mở hẳn phân khoa "Thôi miên trị liệu pháp", dùng phương pháp thôi miên để khám phá những căn bệnh mà họ không thể xác định được căn nguyên. Với phương pháp này họ có khả năng làm cho người bệnh nhớ lại tiền kiếp của mình và nhờ đó mà khỏi bệnh. Bản báo cáo của Trường Đại học này có ghi lại là trường hợp của một bệnh nhân bị chứng đau bụng dưới kinh niên. Cơn đau kinh khủng đến độ bệnh nhân tưởng như cơ thể, đất trời phải nổ tung ra, không thể chịu đựng nỗi. Các phương tiện y khoa đều bó tay không tìm ra nguyên nhân căn bệnh, cuối cùng phải nhờ đến phương thức trị liệu mới. Nhờ phương thức này mà các bác sĩ chữa trị đã giúp bệnh nhân nhớ lại một trong những tiền kiếp của mình, khi anh là một cai tù tại một quốc gia Nam Mỹ dưới thời thống trị của đế quốc Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ 15. Anh là một cai tù rất hung bạo. Những tù nhân nào qua tay anh đều bị anh mang giày bốt đá vào bụng dưới; những nạn nhân này không bị dập gan, dập ruột thì cũng bể bao tử, đau đớn vô cùng. Thấy được tiền kiếp này anh cảm thấy vô cùng hối hận và lành bệnh. Chính BS. Bruce Goldberg trong tác phẩm của ông, "Past lives, Future lives" cũng đã kể lại trường hợp ông đã chữa lành bệnh mù mắt cho một thiếu nữ khi cho bệnh nhân này thấy lại tiền kiếp của mình. (Sđd, trang 100-106).

    Đức Thế Tôn trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện cũng đã nêu ra một số thí dụ điễn hình về tội phước nghiệp báo. Ngài cho biết những hạng Tăng ni giả danh, phá giới, phạm trai, những người chế giễu, phỉ báng những kẻ tu hành thì chắc chắn sẽ bị đọa và ngục Vô Gián, hoặc sanh làm cầm thú đói khát suốt đời; nếu những người chuyên sát sanh hại vật thì kiếp tới sẽ bị chết yểu; những người không bao giờ toại chí, trong cuộc sống làm việc gì cũng thất bại là vì kiếp trước họ hà tiện, bỏn xẻn, chẳng hề giúp người; những người hay chửi bới mắng nhiếc, nói lời thô ác thì bị quả báo không lưỡi, miệng lở, hoặc nội bộ gia đình quyến thuộc không an ổn, kình chống lẫn nhau; những người đời này mang thân xấu xí, tàn tật là do kiếp trước hay nóng giận... 

    Phật tử, khi đã hiểu rõ về tội phước nghiệp báo như thế, nếu ta có gặp phải những bất hạnh trong kiếp sống này thì nên nỗ lực tu tập để hy vọng được sanh về những cảnh giới tốt đẹp hơn trong tương lai, còn nếu ta đang tận hưởng tất cả những hạnh phúc, sung sướng, giàu có, uy quyền trong kiếp sống hiện tại thì lại càng phải nỗ lực tu tập hơn nữa để tăng trưởng thiện nghiệp cho những kiếp sắp tới. Đức Thế Tôn vì lòng đại bi, thương yêu chúng sanh như con nên đã chỉ cho ta một con đường sáng tỏ như thế trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện. Lời dạy của Ngài không cao xa mà rất cụ thể, chỉ cho ta phương pháp thực hành rất dễ dàng để không còn bị rơi vào ác đạo: "Trong mỗi tháng những ngày: Mùng một, mùng tám, mười bốn, rằm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi, mười ngày trên đây là ngày mà các nghiệp tội kết nhóm lại để định là nặng hay nhẹ... Trong mười ngày trai trên đây, nếu có thể mỗi ngày tụng một biến kinh này." (Quyển Trung-Phẩm Thứ Sáu- Như Lai Tán Thán).

    Tu Tập, Hành Trì
    Theo Hạnh Nguyện Của Bồ Tát Địa Tạng

    Đọc tụng kinh Địa Tạng, trì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, ta phải thấy được hạnh nguyện cao cả của Ngài: "Nếu trong địa ngục còn một chúng sanh bị đau khổ, tôi thề sẽ không thành Phật", để từ đó những người phát tâm Bồ Tát nỗ lực tu tập, hành trì theo hạnh nguyện của Ngài, theo gót chân Ngài, nương theo oai lực của Ngài đi vào chốn địa ngục để cứu vớt những linh hồn bất hạnh hầu đền trả ơn Tam Bảo, ơn cha mẹ, tổ tiên

    Nhưng địa ngục ở đâu? Có lẽ ta không cần phải tìm địa ngục ở đâu xa, bởi vì địa ngục không nhất thiết là ở thế giới bên kia, địa ngục tồn tại ngay trong kiếp sống này, trên thế giới này; bởi vì nơi nào có ngục tù, có giam cầm, tra tấn, có tiếng rên xiết, thở than là ở đó có địa ngục. Phật giáotôn giáo của Từ Bi, ra đời vì những khổ đau của nhân loại, cho nên người Phật tử phải là những nhân tố tích cực có mặt hàng đầu tại những nơi khổ nạn mà chốn ngục tù là một thí dụ điễn hình. Chưa hết, còn bao nhiêu oan hồn vất vưởng, nạn nhân của những cuộc chiến kinh hoàng, những phòng hơi ngạt, những trại tập trung, những trại cải tạo, trên Biển Đông, trong những ngục tù oan khuất... đang cần được siêu độ. Đọc tụng kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, trì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, được phần công đức nào ta nên hồi hướng đến những chúng sanh bất hạnh này và nguyện cầu cho linh hồn họï mau chóng siêu thoát

    Địa ngục cũng có thể ở chung quanh ta, đó là môi trường không thoải mái mà ta phải sống hoặc làm việc. Đó là những người sống bên cạnh ta, là bạn đồng sở, hàng xóm láng giềng, thậm chí ngay cả cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái... những người ta không thích nhưng do nghiệp duyên ta phải gần gũi, chung đụng mà đôi khi họ đã tỏ ra rất độc ác, biến đời sống ta thành cõi địa ngục. Jean Paul Sartre, một triết gia nỗi tiếng của Pháp đã từng nói "L'enfer c'est les autres" -Địa ngục tức là những người chung quanh- cũng trong ý nghĩa này. Địa ngục cũng ở ngay chính trong ta, đó là tham lam, giận dữ, hận thù, đố kî, si mê, mù quáng... đã hàng ngày không ngớt xâu xé ta, biến ta thành những con người ngập chìm trong vô minh tăm tối, bị chế ngự bởi những thú tính thấp hèn. Tu theo hạnh nguyện của Bồ Tát Địa Tạng vì thế cũng có nghĩa là thể hiện những hành động tích cực biến cải chính con người ta, môi trường sống chung quanh ta từ địa ngục trở thành Tịnh Độ.

    Từ những công hạnhnỗ lực tu tập này, người Phật tử thực hành Bồ tát đạo, khi giã từ cõi thế lập tức phát khởi tâm đại từ bi, dâng lời phát nguyện xin bước theo Bồ Tát Địa Tạng đi về chốn địa ngục để lập thêm công đức, cho đến khi nào Đức Phật Di Lặc chuẩn bị ra đời, ta lại xin được trở về cõi Trời Đâu suất, tiếp tục tu học để cùng với Phật Di Lặc trở lại cõi thế trong hội Long Hoa, xây dựng một cõi Tịnh độ mới cho nhân loại. Chắc chắn Ngài sẽ tiếp nhận ta.

    Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật, đặc biệt là trong mùa Vu Lan báo hiếu. Chiếc thiền trượng của Bồ Tát Địa Tạng đã, đang và sẽ gỏ mãi vào cánh cửa địa ngục. Năng lực của tâm đại bi sẽ làm mở tung tất cả những cánh cửa hắc ám, làm tan rã những xiềng xích trói buộc, giải cứu tất cả những ai còn bị đọa đày trong cõi vô minh, tù ngục để từ đó những hạt giống bồ đề, những hạt giống thương yêu sẽ nẩy mầm mạnh mẽ trong những linh hồn đau khổ của anh, của chị, của chúng ta, của tất cả những thân bằng quyến thuộc, đang sống hay đã qua đời... Đó chính là thông điệp của Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện.

    NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỔ TÁT.
    NAM MÔ ĐƯƠNG LAI HẠ SANH DI LẶC TÔN PHẬT.

    Source: thuvienhoasen
    Gửi ý kiến của bạn
    Tắt
    Telex
    VNI
    Tên của bạn
    Email của bạn
    (Xem: 22462)
    Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
    (Xem: 21739)
    Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
    (Xem: 23311)
    Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
    (Xem: 21161)
    “Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
    (Xem: 21748)
    Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
    (Xem: 22219)
    Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
    (Xem: 23597)
    Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
    (Xem: 20394)
    Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
    (Xem: 20039)
    Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
    (Xem: 21929)
    Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
    (Xem: 24719)
    Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
    (Xem: 18957)
    Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
    (Xem: 30948)
    Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
    (Xem: 23956)
    Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
    (Xem: 27748)
    Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
    (Xem: 26494)
    Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
    (Xem: 38087)
    Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
    (Xem: 18796)
    Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
    (Xem: 18420)
    Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
    (Xem: 19928)
    Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
    (Xem: 19013)
    Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
    (Xem: 23127)
    Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
    (Xem: 22889)
    Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
    (Xem: 18684)
    Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
    (Xem: 15827)
    Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
    (Xem: 18821)
    Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
    (Xem: 19634)
    Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
    (Xem: 20138)
    Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
    (Xem: 19927)
    Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
    (Xem: 18102)
    Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
    (Xem: 16405)
    Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
    (Xem: 16903)
    Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
    (Xem: 39181)
    "Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
    (Xem: 26022)
    Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
    (Xem: 20077)
    “Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
    (Xem: 18813)
    Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
    (Xem: 24032)
    Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
    (Xem: 29087)
    Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
    (Xem: 22895)
    Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
    (Xem: 30917)
    Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
    (Xem: 20995)
    Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
    (Xem: 26836)
    Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
    (Xem: 20653)
    Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
    (Xem: 26230)
    Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
    (Xem: 23309)
    Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
    (Xem: 19810)
    Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
    (Xem: 15820)
    Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
    (Xem: 19821)
    Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
    (Xem: 28934)
    Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
    (Xem: 20653)
    Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
    (Xem: 19399)
    Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
    (Xem: 30456)
    Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
    (Xem: 36388)
    Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
    (Xem: 33183)
    Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
    (Xem: 35511)
    Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
    (Xem: 20943)
    Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
    (Xem: 21904)
    Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
    (Xem: 25243)
    Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
    (Xem: 25770)
    PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
    (Xem: 31230)
    Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
    Quảng Cáo Bảo Trợ
    Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
    Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant