Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luận về vấn đề hộ niệm lúc lâm chung theo kinh tạng Nikaya

12 Tháng Tám 201100:00(Xem: 29326)
Luận về vấn đề hộ niệm lúc lâm chung theo kinh tạng Nikaya

LUẬN VỀ VẤN ĐỀ HỘ NIỆM LÚC LÂM CHUNG
THEO KINH TẠNG NIKAYA
Chúc Phú

Sinh mạng này ngắn thay,
Trong trăm năm, rồi chết,
Nếu ai sống hơn nữa,
Rồi cũng chết vì già
(1)..

blankHy vọng được lợi dưỡnghy vọng được sống là hai hy vọng khó từ bỏ của con người, được Phật dạy trong kinh Tăng Chi(2). Càng về cuối của kiếp người, khi cuộc đua giữa thọ mạngthời gian đang đi vào hồi kết, thì dường như hy vọng lợi dưỡng đã và đang ngấp nghé rời sân để nhường chỗ cho hy vọng được sống, được tồn tại. Đôi khi, với một số chúng sanh nói riêng, các niềm hy vọng này thực sự là những quan ngại, vì chúng chợt bùng lên mạnh mẽ, chi phối và tạo nên một sự ảnh hưởng lớn đến việc thăng hoa hay đọa lạc của một con người.

Vào những thời khắc cuối cùng của kiếp sống, thân thể nằm trong sự khống chế của tật bệnh, của những khổ đau; đó cũng là lúc những bất thiện pháp tiềm ẩn lâu nay có khả năng trỗi lên trong dòng chảy tâm thức. Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo. Thậm chí ngay như một vị xuất gia, đôi khi phải miễn cưỡng chọn giải pháp kết liễu mạng sống vì không vượt qua được những nỗi đau tột cùng của thể xác(3). Thực tế đó đã cho thấy rằng, hơn bao giờ hết, việc hỗ trợ cho chúng sanh, nói rõ hơn là việc hộ niệm lúc lâm chung, không chỉ rất cần trong mọi khoảng thời gian của đời sống, mà còn rất mực quan trọng và đầy ý nghĩa trong những giây phút cuối của đời người. Hộ niệm lúc lâm chung trong giới hạn được hiểu, tức là gấp rút chuyển hóa chúng sanh trong những giây phút cuối của đời sống.

Hộ niệm lúc lâm chung nhìn từ lịch sử kinh điển

Khi hay tin vua Tịnh Phạn có khả năng không qua khỏi, Đức Phật đã thân hành về gấp quê nhà để giáo hóa cho cha. Trên giường bệnh, với bảy ngày còn lại của cuộc đời, với sự khai thị tràn ngập tình thương yêu của Đức Phật, vua Tịnh Phạn đã chứng tứ quả A la hán trước khi xả báo thân. Với Đức Phật, tình thương là phổ quát và không chỉ dừng lại ở người thân. Kinh ghi: Có một tân Tỷ kheo ít người biết đến, bị bệnh hoạn, đau đớn, bị trọng bệnh, vừa nghe mấy chữ “tân Tỷ kheo” và “bệnh nặng”, Đức Phật đã thân hành thăm hỏi và giáo giới để cuối cùng, Tỷ kheo ấy khởi lên pháp nhãn ly trần vô cấu: “Phàm cái gì sanh khởi, tất cả đều chịu sự đoạn diệt(4). Mặc dù bận rộn trong nhiều Phật sự, nhưng khi hay tin Tôn giả Phagguna bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cận lâm chung, Đức Phật đã tùy cơ nghi quang lâm hóa độ(5). Sự phù hợp, đúng lúc đúng thời trong khi thuyết pháp là một trong những đặc tính của Đức Thế Tôn.

Xuyên suốt hệ thống kinh tạng Nikaya, ta có thể gặp rất nhiều trường hợp Đức Phật hoặc đệ tử của Ngài như ngài Xá Lợi Phất, ngài A Nan… đã trực tiếp thuyết giảng cho người sắp chết. Đặc biệt như trưởng giả Cấp Cô Độc, tận tụy một đời phụng Phật và Tăng, nhưng khi lâm chung cũng không dám để Phật bận tâm nhiều, mà chỉ cho người thay mình đến đảnh lễ vấn an Đức Phậtcầu thỉnh ngài Xá Lợi Phất giáo giới. Kinh ghi: Này bạn, hãy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch như sau: “Bạch Thế Tôn, cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Cấp Cô Ðộc xin cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn”. Rồi đi đến Tôn giả Sariputta (Xá Lợi Phất), sau khi đến, nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sariputta và thưa như sau: “Thưa Tôn giả, cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Cấp Cô Ðộc xin cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sariputta và thưa như sau: “Thưa Tôn giả, lành thay, nếu Tôn giả Sariputta vì lòng từ mẫn, đi đến trú xứ của cư sĩ Cấp Cô Ðộc”(6). Một đời tận lực phụng sự Tam bảo, thế mà đến phút cuối của đời mình cũng không dám phiền nhiễu đến Đức Thế Tôn, điều đó đủ thấy tầm mức vĩ đại của một cận sự nam trung kiên thời Đức Phật. Với những nghiệp nhân đã thực hiện trong đời, cộng với sự giáo giới kịp thời của Tôn giả Xá Lợi Phất, trưởng giả Cấp Cô Độc sau khi thân hoại mạng chung liền sanh lên cõi Tusita (Ðâu Suất thiên)(7).

Từ những trường hợp vừa nêu, có thể nhận thấy rằng thời thuyết giảng, giáo giới trước khi lâm chung luôn được Phật và chúng Tăng chú trọng. Phải chăng trong quan điểm của Đức Phật, khoảng thời gian trước khi lâm chung được xem là thời khắc vàng, có ảnh hưởngchi phối đến sự vận hành của đời sống tiếp theo?

Thời khắc vàng và nội dung giáo giới

Bằng tuệ quán siêu việt, Đức Phật nhận thấy rằng được sanh làm người là một cơ may lớn, vì rất ít là chúng sanh được tái sanh làm người! Còn rất nhiều là những chúng sanh phải tái sanh ra ngoài loài Người(8). Đã được làm người và được nghe diệu pháp quả là hạnh phúc lớn lao. Tuy nhiên, được nghe pháp đúng thời và thẩm sát ý nghĩa đúng thời có thể được xem là thời khắc vàng của đời sống theo kinh Tăng Chi(9). Bởi lẽ, mặc dù khi sống, chúng sanh chưa thoát khỏi năm hạ phần kiết sử như: Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân, nhưng trong những giây phút cuối của đời sống, được gặp Thế Tôn, được nghe thế Tôn thuyết pháp(10) vị ấy được giải thoát khỏi năm hạ phần kiết sử. Hoặc giả như tuy không được thấy Thế Tôn, nhưng được thấy đệ tử của Ngài thuyết pháp(11). Sau khi nghe thuyết pháp, tâm vị ấy được giải thoát khỏi năm hạ phần kiết sử. Theo kinh Tương Ưng(12), một khi đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử thì người đó sẽ vĩnh viễn không còn trầm luân vì đã đặt một chân đầu tiên vào dòng Thánh.

Nếu như khát vọng của Nho gia: “Sáng nghe đạo, chiều chết cũng cam”(13), thì ở đây, Đức Phật tin tưởng rằng, nếu như bất cứ ai siêng năng trong năm việc và một trong năm việc, đó là tin Phật một cách bất động và sâu sắc, thì nếu được giảng dạy buổi chiều, thời chứng được sự thù thắng buổi sáng, nếu được giảng dạy buổi sáng, thời sẽ chứng được sự thù thắng buổi chiều(14). Ở đây, khả tính giải thoát sở dĩ diễn ra nhanh hoặc chậm tùy thuộc mức độ nỗ lực cũng như thiện căn đã gieo trồng của mỗi chúng sanh.

Cần phải thấy rằng, đời sống của con người vốn dĩ ngắn ngủi và càng ngắn ngủi hơn đối với bất kỳ ai đang lâm bệnh nặng. Do vậy, trong khoảng thời gian này, những nội dung thiết yếu, căn bản của pháp hành giải thoát cần được trang bị cho người bệnh. Nếu như chưa được quy ythọ trì ngũ giới thì tùy theo điều kiện nhân duyên, điều kiện biệt nghiệp của từng người, giúp họ hoàn thành tâm nguyện. Bởi lẽ khi và chỉ khi một người phát nguyện quy y Tam bảohành trì Ngũ giới, thì họ mới chính thức trở thành một vị cư sĩ, đệ tử tại gia của Đức Phật(15). Ngoài việc khơi dậy niềm tin bất động với Phật với Pháp với Tăng cũng như ý thức hành trì nghiêm chỉnh học giới của người cư sĩ(16); cần phải trang bị thêm nhận thức về ba tính chất xuyên suốt của đời sống như vô thường, vô ngã và khổ.

Từ thực tế bài pháp của Tôn giả Xá Lợi Phất giáo giới cho cư sĩ Cấp Cô Độc, giáo lý vô ngã đã được Tôn giả Xá Lợi Phất khéo léo trình bày. Vô ngã ở đây được giảng dạy là không chấp thủ, nghĩa là ý thức không mắc dính, không chấp trước vào bất cứ điều gì thuộc ngoại giới hay nội tâm. Ai có chấp trước là có dao động. Ai không chấp trước là không có dao động. Không có dao động, thời có khinh an; có khinh an thời không có hy cầu (nati); không có hy cầu thời không có khứ lai; không có khứ lai thời không có tử sanh; không có tử sanh thời không có đời này, không có đời sau, không có giữa hai đời. Như vậy là sự đoạn tận đau khổ(17). Trường hợp giáo giới cho Tỳ kheo đang bệnh nặng Vakkali, cũng là một minh chứng sinh động trong việc trang bị cho người cận tử ba pháp ấn quan trọng này(18).

Với hàng chúng sanh nghiệp trọng, ý thức chấp thủ là một trong những hạn chế dẫn họ tái sanh trong khổ cảnh. Đặc biệt, đối với người cư sĩ tại gia nói chung, thì ý thức chấp thủ vào vợ con, tài sản luôn nổi trội hơn bình thường. Do vì một đời cực nhọc, lao tâm khổ trí để dành dụm của cải, do vì các mối liên hệ thân thuộc như cha mẹ, vợ chồng người thân… đã cố kết từ lâu; cho nên ý thức chấp thủ sẽ trào dâng và trở nên mạnh mẽ vào lúc này. Do vậy, cần phải khéo léo trang bị cho người bệnh thái độ buông bỏ, xả ly. Ở đây, không những trong hệ thống kinh tạng Nikaya mà cả hệ thống kinh điển Bắc truyền, đã ghi lại rất nhiều trường hợp do vì bám víu, chấp thủ vào thời điểm cận tử, nên phải chấp nhận bị cuốn vào dòng xoáy bất tận của sanh tử, luân hồi.

Như vậy, ngoại trừ các trường hợp đặc biệt, nội dung buổi thuyết giảng làm hành trang cho người cận tử theo kinh điển Nikaya bao gồm việc triển khai niềm tịnh tín bất động với ba ngôi Tam bảo, trình bày cũng như hoàn thiện các học giới, củng cố việc liễu tri tính chất vô thường vô ngã của sự vật, hiện tượng. Nếu như người nghe hội đủ các thiện căn đã vun đắp từ nhiều kiếp trước đó, thì có khả năng hoàn thành thánh vị dự lưu hoặc các phẩm vị cao hơn trước khi xả báo thân này. Trong trường hợp nghiệp căn còn nặng, thì ít nhất, với sự hỗ trợ và chuẩn bị ấy, người cận tử sẽ có một tâm thế an lành làm hành trang cho kiếp lai sinh. Lợi ích thiết thực nhất đối với người cận tử, đó là “Khi Pháp và Luật được Như Lai thuyết giảng, có ưa nghe, có lóng tai, có an trú tâm liễu giải, nắm giữ điều lợi ích, bỏ qua điều không lợi ích, thành tựu tùy thuận nhẫn nhục. Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-khưu, nếu được nghe diệu pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp”(19). Nói chính xác, sẽ được dự lưu phần trong Thánh quả. Một thời khắc không dài nhưng hứa hẹn những tín hiệu tươi sáng cho đời sống vị lai, nếu như ai đó đủ duyên và chuyên tâm nỗ lực. Đó cũng là điều để lý giải tại sao Đức Phật cũng như các vị Thánh tăng thời ấy, luôn quan tâm và xem đấy như là biểu hiện sinh động cho tâm từ bi, mong mỏi độ thoát chúng sanh trong những cơ may cuối của kiếp người.

Mẫu hình cư sĩ độ sanh

Thời xưa gặp Phật đã khó, thời nay được gặp chúng Tăng trong phút cuối của đời người lại càng khó bội phần. Do vậy, việc tự mình giúp đỡ người thân, cũng là một trong những việc làm quan trọng và thiết thực của người Phật tử. Câu chuyện Cha mẹ Nakula(20) là một minh chứng sinh động về việc tương trợ lẫn nhau trong phút giây nguy khốn của đời người. Theo kinh, cha của Nakula bệnh nặng, khó lòng qua khỏi, nằm trên giường bệnh, vô số điều lo nghĩ thiện và bất thiện thôi thúc và dằn vặt tâm tư: là trụ cột kinh tế của gia đình, nếu ông ra đi mà chưa kịp chuẩn bị, thì mẹ con biết nương dựa vào đâu? Con có lẽ sẽ thiếu học, thiếu ăn và nhà cửa có thể sẽ bị bán? Hoặc, vợ mình còn trẻ đẹp thế này, mình chết sớm, có lẽ bà ấy sẽ tái giá mất thôi. Đôi khi, cũng có những tư tưởng thanh cao hơn được phát khởi: khi còn mình, bà ấy còn đi nghe pháp, còn lên tinh xá gặp Phật và chư Tăng, nghiêm trì học giới, khi mình mất rồi, bà ấy có còn thực hiện các việc lành này không?… Vô vàn điều suy nghĩ thiện và bất thiện đồng loạt khởi lên, cuộn chặt tâm tư u ám.

Sợ chồng mình đọa lạc vì trong giây phút mạng chung với tâm còn mong cầu ái luyến, mẹ của Nakula vừa thuận thứ hứa khả, vừa dẫn dắt tâm tư của chồng. Bà bảo rằng: ông à, nếu ông mất đi, có lẽ tôi sẽ vất vả hơn, nhưng tôi khéo léo dệt vải và chải lông cừu và để cuối cùng, tôi có thể nuôi dưỡng các con và duy trì nhà cửa. Ông đừng suy nghĩ quẩn quanh về việc tôi sống ra sao khi thiếu ông và thậm chí đừng quá bận tâm về tiết hạnh của một phụ nữ góa chồng, trong mười sáu năm chúng ta sống làm người gia chủ, tôi đã sống thực hành Phạm hạnh như thế nào, đó là điều mà ông hoàn toàn hiểu rõ. Về việc hộ trì Tam bảo và thăng tiến tâm linh, ông càng đừng lo, vì sau khi gia chủ mệnh chung, tôi sẽ muốn yết kiến Thế Tôn nhiều hơn, sẽ muốn yết kiến chúng Tăng nhiều hơn. Trên phương diện hành trì học giới của người cư sĩ, dù ông không có ở gần để nhắc nhở, nhưng ông hãy an tâm đi, cho đến khi nào, các nữ đệ tử gia chủ mặc áo trắng của Thế Tôn còn giữ giới luật một cách đầy đủ, tôi là một trong những người ấy.

Mặc dù gia chủ Nakula vượt qua trọng bệnh, nhưng những tâm tư rất thực của ông, cùng những lời chia sẻ chân thành của người vợ hiền, đáng được xem là sự điển hình trong tư duy và tính mẫu mực, như pháp, trong việc hỗ trợ lẫn nhau vào giây phút cuối của người tại gia cư sĩ. Thông điệp chuyển tải từ câu chuyện, đó chính là: chớ có mạng chung với tâm còn mong cầu ái luyến.

Chuẩn bị cho chuyến viễn hành

Không có cái gì sinh mà không già, không chết(21). Chân lý đó được Phật vận dụng nhiều phương tiện để chỉ bày, nhằm trang bị một nhận thức thường trực trong suy nghĩ của chúng sanh. Nếu như được nuôi dưỡng thường trực quán niệm ấy, thì khi nhân duyên chín muồi, thuật ngữ Phật học gọi là sung mãn, thì cánh cửa bất tử sẽ được mở ra cho hành giả.

Song song với việc tư duy về tính chất phổ quát vừa nêu ở trên, trầm tư về yếu tố không bền vững, không ổn định, bấp bênh của mọi sự vật hiện tượng luôn có khả năng xảy đến cho ta ở bất cứ nơi đâu và trong bất cứ hoàn cảnh nào. Quán chiếu vô thường là cách nói khác về trường hợp vừa mô tả. Thứ ba, mỗi tâm hành hay sự vật hiện tượng, sở dĩ chúng hiện hữu là do nhiều yếu tố hòa hợp mà thành. Nhận chân tính chất duyên sinh, vô ngã của sự vật hiện tượng cũng là một nội dung cần được trang bị. Và nếu như thực hiện được ba yếu tố quan trọng ở trên, hành giả đã và đang kiện toàn về lãnh vực nhận thức, về trí tuệ.

Mang thân phận con người nhưng để làm người đúng nghĩa, đúng với cái danh nghĩa đã mang, như trong kinh gọi là Danh phải tương xứng người(22), thì việc kiện toàn những nguyên tắc đạo đức căn bản của người cư sĩ tại gianăm giới, là một nội dung cần phải chuẩn bị. Nói cách khác, nghiêm chỉnh về học giới là một trong những tiêu chuẩn khi sống trong đời. Đặc biệt hơn, nếu như người giữ giới, sống theo giới luật sẽ chết với tâm hồn không rối loạn(23), là điều được khẳng định và tán thán trong kinh.

Sống đã lo sợ nhiều bề, khi gần chết thì càng hoang mang tột độ. Muốn tĩnh tại, bình yên không hoang mang trong hiện tại và giữ được tâm bình lặng trong phút cuối của đời mình, thì ngay trong đời sống này, cần phải kiện toàn niềm tịnh tín Tam bảo một cách vững chãi. Học Phật để rồi tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin Tam bảo với niềm tin chánh tín, đó là điều kiện cần để có được một thú hướng an vui. Ngoài ra, các học pháp bổ trợ như bố thí, phóng xả, vị tha… cùng những thiện pháp tương ưng cũng cần phải song song thực hiện.

Nếu thực hiện được như vậy thì dù cho bất cứ chuyện gì xảy ra về thể xác, về thân mạng, dù đột tử mà chết hoặc chết với bất cứ lý do gì như: gặp con voi cuồng chạy; gặp con ngựa cuồng chạy; gặp người cuồng chạy; gặp cỗ xe lớn cuồng chạy; gặp cỗ xe nhỏ cuồng chạy(24), hoặc do hết thọ mạng mà chết, thì sanh thú hướng về sẽ là thiện thúthiện giới. Đây cũng là điều được Đức Phật khẳng định một cách mạnh mẽ và vững chãi, qua hình ảnh một thân cây khi bị đốn ngã, thì nó sẽ ngã xuôi về hướng mà thân cây từ trước tới nay đang hướng về(25). 

_____________________________________________

(1) Kinh Tiểu Bộ, kinh Tập, chương 4, phẩm 8, kinh Già.

(2) Kinh Tăng Chi, chương Hai pháp, phẩm Các hy vọng, kinh Hy vọng.

(3) Kinh Trung Bộ, tập 3, kinh Giáo giới Channa.

(4) Kinh Tương Ưng, tập 4, thiên Sáu xứ, chương 1, Tương ưng sáu xứ, phần b, phẩm Bệnh, kinh Bệnh.

(5) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại Phẩm, kinh Phagguna.

(6) Kinh Trung Bộ, tập 3, Kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc.

(7) Kinh đã dẫn.

(8) Kinh Tương Ưng, tập 2, thiên Nhân duyên, chương IX, Tương ưng thí dụ, kinh Đầu ngón tay.

(9) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại Phẩm, kinh Phagguna.

(10) Kinh đã dẫn

(11) Kinh đã dẫn

(12) Kinh Tương Ưng, tập 5, Thiên đại phẩm, chương XI, Tương ưng dự lưu, phần a, phẩm Veludvara, kinh Dighavu.

(13) Luận Ngữ, thiên Lý Nhân: 朝聞道,夕死可矣.

(14) Kinh Trung Bộ, tập 2, Kinh Bồ Đề Vương Tử.

(15) Kinh Tương Ưng, chương 1, Tương ưng uẩn, phần b, phẩm Phước đức sung mãn, kinh Mahanama.

(16) Kinh đã dẫn

(17) Kinh Trung Bộ, tập 3, Kinh Giáo giới Channa.

(18) Kinh Tương Ưng, tập 3, chương I, tương ưng uẩn, phần e, phẩm Trưởng lão, kinh Vakkali

(19) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại phẩm, kinh Không ưa nghe.

(20) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, phẩm Cần phải nhớ, kinh Cha mẹ của Nakula.

(21) Kinh Tương Ưng, tập 1, Thiên có kệ, chương 3, Tương ưng Kosala, phẩm thứ nhất, kinh Vua.

(22) Kinh Tương Ưng, tập 1, chương VII, Tương ưng Bà la môn, phẩm A La Hán thứ nhất, kinh Bất hại.

(23) Kinh Trường Bộ, tập 1, Kinh Đại Bát Niết Bàn.

(24) Kinh Tương Ưng, tập V, thiên Đại phẩm, chương XI, Tương ưng dự lưu, phần b, Phẩm Saranàni, kinh Mahanama 1.

(25) Kinh Tương ưng, tập V, thiên Đại phẩm, chương XI, Tương ưng dự lưu, phần b, Phẩm Saranàni, kinh Mahanama 2.

Nguồn: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22456)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21731)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23308)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21148)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21740)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22203)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23592)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20386)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20029)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21915)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24712)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18950)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30943)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23951)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27743)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26488)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38080)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18790)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18407)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19912)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19009)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23121)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22886)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18680)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15821)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18816)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19630)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20129)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19921)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18094)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16400)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16893)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39170)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26016)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20074)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18797)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24029)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29079)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22892)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30901)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20989)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26819)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20648)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26224)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23302)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19804)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15804)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19815)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28929)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20649)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19389)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30447)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36383)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33171)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35497)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20937)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21897)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25230)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25760)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31225)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant