Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vô thường, bản chất của luân hồi

21 Tháng Tám 201100:00(Xem: 31778)
Vô thường, bản chất của luân hồi

VÔ THƯỜNG, BẢN CHẤT CỦA LUÂN HỒI
Thứ bảy ngày 30 tháng 7 nãm 2011, Tin tức năm 2011

blankChúng tôi vừa mới kết thúc một vài phần trong chương trình giảng pháp tại Ladakh. Tôi gần như chẳng nhớ chương trình bắt đầu khi nào, vì có cảm giác như mới hôm qua thôi chúng tôi vẫn còn bận rộn chuẩn bị cho mọi việc. Thời gian trôi như bay và đây thực sự là một bài pháp vĩ đại về vô thường. Hầu như những gì tôi đã lên kế hoạch đều đã không diễn ra như dự kiến. Tôi viết sẵn một vài tin bài, hy vọng rằng chúng sẽ tự động được đăng lên vào ngày giờ “đã định”, song tôi lại quên mất không chọn nút “Đồng ý” trong mục “Đồng ý đăng bài” Vậy nên có lẽ tôi sẽ cần thêm một chút thời gian để chỉnh lại những bài viết này trước khi gửi tới cho các bạn.

Đây là một minh họa cho đời sống của chúng ta. Chúng ta luôn lo lắng chuẩn bị trước bao nhiêu thứ. Chúng ta muốn hoàn thành việc này và đạt được điều kia. Thế nhưng trong hầu hết các trường hợp, nếu bạn để tâm xem xét lại, trừ khi bạn thực sự là bậc thần thánh hoặc là người vô cùng may mắn, nếu không thì mọi chuyện chẳng hề diễn ra đúng như bạn đã dự định hay mong muốn. Chính vì thế nên tôi vẫn luôn nhắc rằng, “Hãy sống với hiện tại”. Ngày hôm qua đã trôi qua rồi, ngày mai sẽ không bao giờ đến, nhưng nếu chúng ta có đủ trí tuệ để nắm bắt và hân hưởng khoảng thời gian hiện tại thì tương lại sẽ nằm trong tầm kiểm soát của chúng ta. Đây chính là bí quyết. Đề nghị bạn sống với hiện tại không có nghĩa là bạn không cần quan tâm tới tương lai. Nhưng do bản chất của luân hồi, chúng ta vẫn liên tục bị xô đẩy phải tiến về phía trước. Vì thế nên hễ khi nào có thể nắm bắt được thời khắc hiện tại, mỗi thời khắc, càng nhiều càng tốt, thì đó đã là một thành tựu vượt bậc, bởi để đạt tới điều đó chúng ta sẽ làm mọi việc trong sự tỉnh giácý thức rõ ràng về những gì đang diễn ra trong hiện tại, như vậy thực chất chúng ta đang thực hành thiền định hay đang thiền định về cuộc sống của chính mình. Bất cứ khi nào tỉnh giác, chúng ta đều ý thức rõ ràng về mọi nghiệp thân, khẩu, ý của mình. Chẳng hạn như do biết rõ nếu phạm phải nghiệp bất thiện, chúng ta sẽ phải chịu nghiệp quả báo ứng ngay trong đời này hoặc trong các đời sau, như vậy với sự hiểu biết đó, nếu chúng ta luôn giác tỉnh trong hiện tại thì chúng ta sẽ không bao giờ lầm lạc. Chúng ta sẽ không làm gì tổn hại tới người khác, ngược lại chúng ta còn luôn giúp đỡ mọi người, mang lại hạnh phúc và sự lợi lạc cho hết thảy chúng sinh, những điều đó chắc chắc sẽ dẫn chúng ta tới hạnh phúc an vui.

Có nhiều người đề nghị tôi hướng dẫn cách thiền định. Đương nhiên có rất nhiều phương pháp. Một trong những phương pháp thực tiễn nhất chính là sống với thời khắc hiện tại, và hiểu rằng vô thường chính là đặc tính của luân hồi. Nếu không hiểu được điều này, chúng ta sẽ có một cuộc sống đầy bám chấp, và như vậy chính là tìm kiếm khổ đau. Bản chất của luân hồi là khổ đau vì chúng ta không thể nào nương tựa vào những thứ mình yêu thích hay trốn tránh những gì mình ghét bỏ. Chúng ta luôn ở trong một vòng quay, luôn đuổi theo một điều gì đó.

Vậy chúng ta có nên tuyệt vọng khi biết rằng mình đang sống trong luân hồi đau khổ. Đương nhiên là không nên, vì chúng ta còn có rất nhiều cơ hội để chuyển hóa cuộc sống từ tiêu cực trở nên tích cực bằng cách chuyển hóa tâm của mình. Chuyển hóa cách chúng ta nhìn nhận người khác, cách chúng ta sống. Đức Phật đã thuyết giảng cho chúng ta về Tứ diệu đếBát chính đạo. Chúng ta cần hiểu về lý thuyết, và trong thực tiễn đời sống chúng ta áp dụng thực hành những gì đã hiểu.

Xin gửi lời tri ân tới chính phủ Ấn Độ đã tạo mọi điều kiện về an ninh cũng như thu xếp mọi việc ổn thỏa để tôi được đón tiếp rất chu đáo. Với sự giúp đỡ của đội bảo an và người dân địa phương, đã có hơn 10,000 người tới tham dự và hân hưởng những thời khắc quý giá tại Nyoma, một nơi rất hiếm khi có khách du lịch ghé thăm. Chúng tôi đã kết thúc chương trình hoàn toàn viên mãn. Đặc biệt xin tri ân ban tổ chức, nhất là đạo hữu thân thiết của tôi là Ngài Drukpa Choegon Rinpoche, người đã dành cho tôi sự đón tiếp tận tình. Ngài cũng chính là người sẽ đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Hội đồng ADC sắp tới. Tôi có niềm tin vững chắc rằng nhất định Ngài sẽ giúp chúng ta có được một khoảng thời gian tuyệt vờiHội đồng ADC sắp tới sẽ được đón nhận vô lượng ân phúc gia trì từ Ngài cũng như từ Tam Bảo. Tôi tin chắc Hội đồng ADC sẽ tràn đầy đạo vịthành công tốt đẹp.

Tôi mong muốn sẽ được gặp lại tất cả mọi người trong số 10,000 người đã tới tham dự lần này, từ khắp các vùng miền của Ladakh, những người đã cùng nhau ở lại đây trong 10 ngày qua để đón nhận giáo pháp và sự hướng đạo. Dưới đây là một số bức ảnh xin chia sẻ cùng các bạn.

blankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblank

Những ngày này tôi cảm thấy thật xót thương cho chú chó Shonnu vừa mới bị đột tử. Không ai biết chuyện gì đã xảy ra với chú. Khi phụ thân tôi và mọi người tìm thấy thì chú đã chết rồi. Bác sĩ cho hay chú bị trúng độc. Tôi tự hỏi không hiểu tại sao chú lại ngộ độc? Có lẽ do chú đã nghịch ngợm gì đó, hay là giết hại những thú hoang như chuột, hay có ai đó đã vứt chất độc trong vườn. Nếu chỉ nói về bản thân mình, tôi cảm thấy như mất đi một người thân trong gia đình, nên sự việc này thật đáng buồn đối với cá nhân tôi. Nhưng nếu nhìn ra xung quanh, tôi hiểu rằng có rất nhiều người và loài vật bị sát hại mỗi ngày, vì thế tôi không nên chỉ biết chú trọng vào mất mát của riêng mình. Thế nhưng, tôi mong rằng nhân đây có thể chia sẻ tin này với các bằng hữu và đệ tử bởi lẽ đây là một bài pháp lớn lao, không chỉ đáng thương thay cho chú chó của riêng tôi. Bạn có thể là vị vua, là hoàng đế, là người vô cùng giàu có, hay bạn có thể là người ăn mày, là kẻ trộm, tên sát nhân, bất kể dù bạn là ai, là loại người gì thì bạn cũng đang ở trong vòng luân hồi, nghĩa là một ngày nào đó chúng ta đều sẽ chết, đều sẽ phải chia xa người thân, kẻ thùtài sản của mình. Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng được phần nào, còn đâu ta không mang theo được bất kỳ thứ gì, chỉ có nghiệp duyên với rất nhiều món nợ.

Tôi rất đau lòng khi biết rằng có những người bạn, mặc dù có tri thức về Phật Pháp và biết về nhân quả nghiệp báo nhưng vẫn tiếp tục làm những điều bất thiện, đặc biệt là những người làm giàu bằng nhiều thủ đoạn bất lương như cướp đi sinh mạng hay hãm hại người khác. Một số người có thể ngưỡng mộ họ vì sự giàu cóquyền lực. Nhưng nếu bạn kiểm chứng điều gì đang đợi họ phía cuối con đường thì bạn sẽ thấy rằng chẳng có gì ngoài ác báo và những chủ nợ đang chờ họ. Cho dù chúng ta có tin vào nhân quả nghiệp báo hay không, thì đối với họ, sẽ chẳng có an bình, sẽ không có ánh sáng, chỉ thêm nhiều khổ đau mà thôi. Điều quan trọng là ngay bây giờ, ngay giây phút này, chúng ta phải xác quyết rằng chớ nên lãng phí cuộc đời mình. Nếu bạn chỉ có mỗi đời sống này thôi, bạn sẽ làm gì nếu bạn muốn tự dohạnh phúc chân thật? Hãy tự vấn lương tâm nếu hãm hại sinh linh khác liệu có mang lại hạnh phúc chân thực hay không. Tôi có thể khẳng định chắc chắn rằng nó chỉ đem lại nhiều đau khổ phiền não cho bạn hơn mà thôi.

Như Đức Phật đã dạy thật rõ ràng: “Kiếp sống phù du thu mây bay. Sinh tử khác nào vũ điệu say. Đời người mạng mỏng như chớp lóe, Trôi nhanh như thác đổ non ghềnh”. Vậy tại sao không biết trân quý cuộc sống này, sao không đem lại hạnh phúc chân thật cho chính mình và sống một cuộc đời tràn đầy ý nghĩa lợi ích cho tha nhân. Đây là đôi điều nhắn nhủ tôi mong muốn gửi tới các bạn, những bằng hữu và học trò của tôi.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11155)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16517)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 12007)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12165)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12853)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12809)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10306)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14042)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10278)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13771)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16338)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12052)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13044)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11717)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12742)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10884)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11059)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 11016)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11962)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12864)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11153)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12679)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11410)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12596)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14182)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10922)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10601)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11281)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12080)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13227)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12420)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15421)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14411)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12177)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15460)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12069)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12481)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11263)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12142)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10683)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12600)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13245)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14930)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12762)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16649)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19751)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12346)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13600)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12016)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11700)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12819)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14605)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12685)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15754)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13694)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12978)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18085)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11243)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12259)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13118)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant