Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vô thường, bản chất của luân hồi

21 Tháng Tám 201100:00(Xem: 31788)
Vô thường, bản chất của luân hồi

VÔ THƯỜNG, BẢN CHẤT CỦA LUÂN HỒI
Thứ bảy ngày 30 tháng 7 nãm 2011, Tin tức năm 2011

blankChúng tôi vừa mới kết thúc một vài phần trong chương trình giảng pháp tại Ladakh. Tôi gần như chẳng nhớ chương trình bắt đầu khi nào, vì có cảm giác như mới hôm qua thôi chúng tôi vẫn còn bận rộn chuẩn bị cho mọi việc. Thời gian trôi như bay và đây thực sự là một bài pháp vĩ đại về vô thường. Hầu như những gì tôi đã lên kế hoạch đều đã không diễn ra như dự kiến. Tôi viết sẵn một vài tin bài, hy vọng rằng chúng sẽ tự động được đăng lên vào ngày giờ “đã định”, song tôi lại quên mất không chọn nút “Đồng ý” trong mục “Đồng ý đăng bài” Vậy nên có lẽ tôi sẽ cần thêm một chút thời gian để chỉnh lại những bài viết này trước khi gửi tới cho các bạn.

Đây là một minh họa cho đời sống của chúng ta. Chúng ta luôn lo lắng chuẩn bị trước bao nhiêu thứ. Chúng ta muốn hoàn thành việc này và đạt được điều kia. Thế nhưng trong hầu hết các trường hợp, nếu bạn để tâm xem xét lại, trừ khi bạn thực sự là bậc thần thánh hoặc là người vô cùng may mắn, nếu không thì mọi chuyện chẳng hề diễn ra đúng như bạn đã dự định hay mong muốn. Chính vì thế nên tôi vẫn luôn nhắc rằng, “Hãy sống với hiện tại”. Ngày hôm qua đã trôi qua rồi, ngày mai sẽ không bao giờ đến, nhưng nếu chúng ta có đủ trí tuệ để nắm bắt và hân hưởng khoảng thời gian hiện tại thì tương lại sẽ nằm trong tầm kiểm soát của chúng ta. Đây chính là bí quyết. Đề nghị bạn sống với hiện tại không có nghĩa là bạn không cần quan tâm tới tương lai. Nhưng do bản chất của luân hồi, chúng ta vẫn liên tục bị xô đẩy phải tiến về phía trước. Vì thế nên hễ khi nào có thể nắm bắt được thời khắc hiện tại, mỗi thời khắc, càng nhiều càng tốt, thì đó đã là một thành tựu vượt bậc, bởi để đạt tới điều đó chúng ta sẽ làm mọi việc trong sự tỉnh giácý thức rõ ràng về những gì đang diễn ra trong hiện tại, như vậy thực chất chúng ta đang thực hành thiền định hay đang thiền định về cuộc sống của chính mình. Bất cứ khi nào tỉnh giác, chúng ta đều ý thức rõ ràng về mọi nghiệp thân, khẩu, ý của mình. Chẳng hạn như do biết rõ nếu phạm phải nghiệp bất thiện, chúng ta sẽ phải chịu nghiệp quả báo ứng ngay trong đời này hoặc trong các đời sau, như vậy với sự hiểu biết đó, nếu chúng ta luôn giác tỉnh trong hiện tại thì chúng ta sẽ không bao giờ lầm lạc. Chúng ta sẽ không làm gì tổn hại tới người khác, ngược lại chúng ta còn luôn giúp đỡ mọi người, mang lại hạnh phúc và sự lợi lạc cho hết thảy chúng sinh, những điều đó chắc chắc sẽ dẫn chúng ta tới hạnh phúc an vui.

Có nhiều người đề nghị tôi hướng dẫn cách thiền định. Đương nhiên có rất nhiều phương pháp. Một trong những phương pháp thực tiễn nhất chính là sống với thời khắc hiện tại, và hiểu rằng vô thường chính là đặc tính của luân hồi. Nếu không hiểu được điều này, chúng ta sẽ có một cuộc sống đầy bám chấp, và như vậy chính là tìm kiếm khổ đau. Bản chất của luân hồi là khổ đau vì chúng ta không thể nào nương tựa vào những thứ mình yêu thích hay trốn tránh những gì mình ghét bỏ. Chúng ta luôn ở trong một vòng quay, luôn đuổi theo một điều gì đó.

Vậy chúng ta có nên tuyệt vọng khi biết rằng mình đang sống trong luân hồi đau khổ. Đương nhiên là không nên, vì chúng ta còn có rất nhiều cơ hội để chuyển hóa cuộc sống từ tiêu cực trở nên tích cực bằng cách chuyển hóa tâm của mình. Chuyển hóa cách chúng ta nhìn nhận người khác, cách chúng ta sống. Đức Phật đã thuyết giảng cho chúng ta về Tứ diệu đếBát chính đạo. Chúng ta cần hiểu về lý thuyết, và trong thực tiễn đời sống chúng ta áp dụng thực hành những gì đã hiểu.

Xin gửi lời tri ân tới chính phủ Ấn Độ đã tạo mọi điều kiện về an ninh cũng như thu xếp mọi việc ổn thỏa để tôi được đón tiếp rất chu đáo. Với sự giúp đỡ của đội bảo an và người dân địa phương, đã có hơn 10,000 người tới tham dự và hân hưởng những thời khắc quý giá tại Nyoma, một nơi rất hiếm khi có khách du lịch ghé thăm. Chúng tôi đã kết thúc chương trình hoàn toàn viên mãn. Đặc biệt xin tri ân ban tổ chức, nhất là đạo hữu thân thiết của tôi là Ngài Drukpa Choegon Rinpoche, người đã dành cho tôi sự đón tiếp tận tình. Ngài cũng chính là người sẽ đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Hội đồng ADC sắp tới. Tôi có niềm tin vững chắc rằng nhất định Ngài sẽ giúp chúng ta có được một khoảng thời gian tuyệt vờiHội đồng ADC sắp tới sẽ được đón nhận vô lượng ân phúc gia trì từ Ngài cũng như từ Tam Bảo. Tôi tin chắc Hội đồng ADC sẽ tràn đầy đạo vịthành công tốt đẹp.

Tôi mong muốn sẽ được gặp lại tất cả mọi người trong số 10,000 người đã tới tham dự lần này, từ khắp các vùng miền của Ladakh, những người đã cùng nhau ở lại đây trong 10 ngày qua để đón nhận giáo pháp và sự hướng đạo. Dưới đây là một số bức ảnh xin chia sẻ cùng các bạn.

blankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblank

Những ngày này tôi cảm thấy thật xót thương cho chú chó Shonnu vừa mới bị đột tử. Không ai biết chuyện gì đã xảy ra với chú. Khi phụ thân tôi và mọi người tìm thấy thì chú đã chết rồi. Bác sĩ cho hay chú bị trúng độc. Tôi tự hỏi không hiểu tại sao chú lại ngộ độc? Có lẽ do chú đã nghịch ngợm gì đó, hay là giết hại những thú hoang như chuột, hay có ai đó đã vứt chất độc trong vườn. Nếu chỉ nói về bản thân mình, tôi cảm thấy như mất đi một người thân trong gia đình, nên sự việc này thật đáng buồn đối với cá nhân tôi. Nhưng nếu nhìn ra xung quanh, tôi hiểu rằng có rất nhiều người và loài vật bị sát hại mỗi ngày, vì thế tôi không nên chỉ biết chú trọng vào mất mát của riêng mình. Thế nhưng, tôi mong rằng nhân đây có thể chia sẻ tin này với các bằng hữu và đệ tử bởi lẽ đây là một bài pháp lớn lao, không chỉ đáng thương thay cho chú chó của riêng tôi. Bạn có thể là vị vua, là hoàng đế, là người vô cùng giàu có, hay bạn có thể là người ăn mày, là kẻ trộm, tên sát nhân, bất kể dù bạn là ai, là loại người gì thì bạn cũng đang ở trong vòng luân hồi, nghĩa là một ngày nào đó chúng ta đều sẽ chết, đều sẽ phải chia xa người thân, kẻ thùtài sản của mình. Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng được phần nào, còn đâu ta không mang theo được bất kỳ thứ gì, chỉ có nghiệp duyên với rất nhiều món nợ.

Tôi rất đau lòng khi biết rằng có những người bạn, mặc dù có tri thức về Phật Pháp và biết về nhân quả nghiệp báo nhưng vẫn tiếp tục làm những điều bất thiện, đặc biệt là những người làm giàu bằng nhiều thủ đoạn bất lương như cướp đi sinh mạng hay hãm hại người khác. Một số người có thể ngưỡng mộ họ vì sự giàu cóquyền lực. Nhưng nếu bạn kiểm chứng điều gì đang đợi họ phía cuối con đường thì bạn sẽ thấy rằng chẳng có gì ngoài ác báo và những chủ nợ đang chờ họ. Cho dù chúng ta có tin vào nhân quả nghiệp báo hay không, thì đối với họ, sẽ chẳng có an bình, sẽ không có ánh sáng, chỉ thêm nhiều khổ đau mà thôi. Điều quan trọng là ngay bây giờ, ngay giây phút này, chúng ta phải xác quyết rằng chớ nên lãng phí cuộc đời mình. Nếu bạn chỉ có mỗi đời sống này thôi, bạn sẽ làm gì nếu bạn muốn tự dohạnh phúc chân thật? Hãy tự vấn lương tâm nếu hãm hại sinh linh khác liệu có mang lại hạnh phúc chân thực hay không. Tôi có thể khẳng định chắc chắn rằng nó chỉ đem lại nhiều đau khổ phiền não cho bạn hơn mà thôi.

Như Đức Phật đã dạy thật rõ ràng: “Kiếp sống phù du thu mây bay. Sinh tử khác nào vũ điệu say. Đời người mạng mỏng như chớp lóe, Trôi nhanh như thác đổ non ghềnh”. Vậy tại sao không biết trân quý cuộc sống này, sao không đem lại hạnh phúc chân thật cho chính mình và sống một cuộc đời tràn đầy ý nghĩa lợi ích cho tha nhân. Đây là đôi điều nhắn nhủ tôi mong muốn gửi tới các bạn, những bằng hữu và học trò của tôi.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10358)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12256)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15407)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16682)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12305)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11579)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14352)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24714)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10746)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12557)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10466)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12412)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11716)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12105)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13074)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11506)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17525)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21557)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10734)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19354)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12486)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26177)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14469)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13787)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16926)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17711)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13235)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12598)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11682)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11696)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20588)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19137)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19671)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18791)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15151)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15115)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14046)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15592)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14614)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15922)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12954)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18527)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15842)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11134)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53786)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13051)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16671)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15512)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 20034)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15625)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15463)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15257)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10472)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20462)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15613)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13123)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20343)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13353)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29097)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11773)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant