Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14. Phẩm An Lạc Hạnh

27 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10927)
14. Phẩm An Lạc Hạnh

Phẩm An Lạc Hạnh Thứ Mười Bốn


An là lìa được hiểm nguy (phiền não)

Lạc là thân tâm vui vẻ.

Hạnh là oai nghilời nói đáng noi theo.

Liễu vạn pháp ở tính thể rỗng yên, không an, không trụ, không hành, đó là chân an lạc. Từ chân an lạc ấy mà rộng bày Diệu Pháp Liên Hoa, đó là hạnh an lạc. Cho nên Phẩm An Lạc Hạnh này được dựng lập.

“Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi Đại Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn ! các vị Bồ Tát này rất khó có, vì kính thuận Phật nên phát đại thệ nguyện ở nơi đời ác sau, hộ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa này. Thế Tôn ! Các vị Đại Bồ Tát ở đời ác sau, làm sao mà có thể nói kinh này?”.

Vì các vị Đại Bồ Tát Dược Vương và Đại Nhạo Thuyết cùng chúng hội Bồ Tát đều phát lời thệ nguyện “Trì” kinh Pháp Hoa nên Đại Trí Văn Thù mới thưa hỏi Đức Thế Tôn “làm sao có thể nói kinh này” trong đời ác năm trược. Vì khi thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì cần phải năng hành, năng liễu mới có thể vì người khác mà giảng nói được.

Do đó, Phật bảo Ngài Văn Thù : Nếu vị Bồ Tát ở đời ác sau muốn nói kinh này phải an trụ trong bốn pháp :

An trụ nơi Hành xứ và Thân cận xứ.

a) Hành xứ

“Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là chỗ hành xứ của Đại Bồ Tát?”

“Nếu có vị Đại Bồ Tát an trụ trong nhẫn nhục, hòa dịu, khéo thuận không vụt chạc lòng cũng chẳng kinh sợ, lại đối với pháp không phân biệt mà quán tướng như thật, cũng chẳng hành, chẳng phân biệt, đó là chỗ hành xứ của Bồ Tát”.

Vì hàng Thanh văn lấy ly dục làm gốc, hàng Bồ Tát lấy nhẫn nhục làm gốc, tâm thường cùng với chân thật tướng tương ưng. Đối với tất cả sự động loạn của ngoại cảnh, ngoại duyên, Bồ Tát vẫn ở trong tự thể của an định, chẳng vướng chấp nơi “hữu hành” và “vô hành”, không và hữu cả hai đều không an trụ. Do vậy, Bồ Tát ở trong tự tánh thanh tịnh sáng soi mà hòa lạc với muôn loài.

b) Thế nào là thân cận xứ của Đại Bồ Tát?

Kinh chia làm hai phần:

1- Bất thân cận (chỗ không nên gần)

Vị Đại Bồ Tát chẳng gần gũi quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng... chẳng gần gũi các ngoại đạo, phạm chí, ni kiền tử ... chẳng gần kẻ viết sách thế tục, ca ngâm, sách ngoại đạo, cùng phái lộ già da đà, phái nghịch lộ già da đà, kẻ chơi hung hiểm, đâm nhau, đánh nhau và bọn na la, bọn chiên đà la, hàng thịt, kẻ nuôi súc vật, săn bắn, chài lưới. Những người như thế hoặc có lúc họ lại đến, thời Bồ Tát vì đó nói pháp mà không có lòng mong cầu.

Tại sao Bồ Tát phải tránh xa những vấn đề như thế?

Bởi vì để phó chúc cho kẻ kế thừa chưa đủ trí và lực trong việc hiện hành Bồ Tát hạnh, nên đối với chúng sinh còn dẫy đầy tham dục, nếu cùng họ gần gũi mà chẳng tùy thuận thì bị nghịch cảnh làm ngăn trở việc hành trì giáo pháp Đại thừa.

Như đối với kẻ ngoại đạo như phái lộ già da đà là phái chủ trương muôn vật do đất, nước, gió, lửa mà thành tứ đại có hai nguyên tố chất và lực. Tứ đại bất diệt, muôn vật bất diệt, không có luân hồi, xuất thế gì cả, cứ làm theo lòng ham muốn là được. Cùng phái ngược lại là nghịch lộ già da đà, cho nên các luận phái tranh chấp nhau, tạo ra nhiều ác kiến đối với “chân tánh bình đẳng nhất như” chẳng tương ứng chút nào cả, chẳng nên gần gũi họ. Vì gần gũi họ làm cho các chúng sinh có thể khởi động phân biệt mà rơi vào đảo tưởng. Đối với những chúng sinh ấy nếu có đến với Bồ Tát sẽ vì họ mà tùy cơ nghi thuyết pháp, mà không khởi niệm mong cầu gì ở họ cả. Hơn nữa gần gũi họ chúng sinh khác sinh tâm phân biệt. Điều đó cũng có ý nghĩa là đối với Bồ Tát khi hiện hành nơi các thiện ác nhiễm trong tâm thể vẫn an nhiên không hề trói buộc.

“Lại chẳng gần gũi Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, hạng người cầu quả Thanh văn, hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh hành, hoặc trong giảng đường, chẳng cùng ở chung, hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ Tát tùy cơ nghi nói pháp không lòng mong cầu”.

Vì sao thế? Vì những hạng người trên đắm chấp nơi tiểu pháp, đối với kinh pháp Đại thừa khó tin, khó hiểu, chẳng lãnh hội được. Lại những hành vi của Bồ Tát tùy thuận chúng sinh, họ không hiểu thấu, sinh ra chê bai, sinh tâm phân biệt, dấy lên những niệm tốt, xấu, hơn, thua, phải, trái ... Lại rao truyền bên ngoài tổn hại đến sự hành trì mật hạnh của Bồ Tát và sự tu dưỡng của chính họ. Nếu họ có đến hỏi pháp thì tuỳ cơ mà thuyết “Diệu pháp Đại thừa” do vì không vướng nhiễm khi hiện hành, nên kinh viện dẫn “chẳng nên mong cầu gì ở nơi họ cả”.

“Văn Thù Sư Lợi! Lại vị Đại Bồ Tát chẳng nên đối với thân người nữ, thấy tướng có thể sinh tưởng dục nhiễm mà nói pháp, cũng chẳng ưa thấy. Nếu vào nhà người chẳng cùng gái nhỏ, gái trinh, gái góa chung nói chuyện, cũng chẳng gần năm thứ người bất nam để làm thân hậu”.

Vì sao thế? vì gần gũi như vậy làm cho họ sinh tưởng dục nhiễm, bởi “người nữ” ái nhiễm mang nặng. Đã là bậc đại trí thì phải rõ thông muôn pháp. Đối với những người ái nhiễm còn mang nặng mà kinh đã dụ như “các người nữ, cùng những kẻ đoạn căn”. Vỏ vô minh còn dày, tâm phân biệt ấy khởi không ngừng, không một sớm một chiều mà tiến dẫn họ bước ngay vào “lý đạo Nhất thừa”. Trái lại, việc tùy thuận họ chưa đúng thời, đúng lúc, tạo ra những cảnh duyên làm cho tâm niệm mọi chúng sinh chưa hiển lộ “lý đạo Nhất thừa” sinh tâm phân biệt, chẳng có lợi gì cho việc hành trì giáo pháp Đại thừa vậy.

“Cũng chẳng riêng mình vào nhà người, nếu có nhân duyên riêng mình vào thì chuyên lòng niệm Phật. Nếu vì người nữ nói pháp thì chẳng hở răng cười, chẳng bày hông ngực, nhẫn đến vì pháp mà chẳng thân hậu, huống lại là việc khác. Chẳng ưa nuôi đệ tử Sa Di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũng chẳng ưa cùng chúng đồng một thầy”.

Đây là những duyên sự có thể tạo cơ duyên nghi ngờ cho kẻ khác làm cho họ thối thất Bồ đề tâm và cũng cơ duyên tạo cho những kẻ có tâm ái nhiễm dấy khỏi. Vì sự thân cận của mình, việc nuôi dưỡng đệ tử Sa Di ít tuổi và các trẻ nhỏ, làm cho Bồ Tát phải dùng đến một số phương tiện như: cơm ăn, áo mặc, dạy dỗ, lắm lúc hiện ra những tướng trạng: nghiêm nghị, lo âu, chăm sóc... làm cho tâm niệm sinh diệt của chúng sinh dấy khởi, vì những sự việc đó mà mất niềm tin vào “lý đạo Nhất thừa”.

2- Thân cận xứ (chỗ nên gần)

* Thường ưa ngồi thiền ở chỗ vắng tu nhiếp tâm mình. Đây là chỗ thanh tịnh u nhàn, tạo cảnh duyên cho chúng sinh quy nhiếp.

Lại nữa vị Đại Bồ Tát quán nhất thiết pháp không như thiệt tướng, chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển.

* Chỗ thứ hai của Bồ Tát thân cận là xa lìa điên đảo còn gọi là ngồi thiền nơi chỗ vắng vẻ, luôn luôn hiểu rõ thật tướng của các pháp ở thể thường trụ. Nhận rõ, trong mọi hành pháp “như hư không, không có thật tánh, dứt tất cả đường nói phô, chẳng sinh, chẳng xuất, chẳng khởi”.

Vì không có sở đắc nên chân như tính nhiệm mầu hiển lộ.

“Không danh, không tướng, thiệt không chỗ có, chỗ lường, chỗ ngăn, không ngại, không chướng”.

Tất cả vọng pháp đều không có “sở hữu”. Lìa tất cả phiền não nên “vô ngại”. Lìa tất cả sở tri chướng nên được “không chướng”. Không kẹt trong phương sở nên gọi là “không ngăn”. Vượt cả không gianthời gian nên gọi là “không chỗ, không lường”.

Tất cả “chỉ do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sinh cho nên nói thường ưa quán sát pháp tướng. Như thế gọi là thân cận thứ hai của Bồ Tát”.

Tất cả pháp đều do vô minh vọng khởi, cho nên gọi là “do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sinh”. Thường quán sát pháp tướng như thế mà xa lìa phiền não chướngsở tri chướng vậy.

Phần trùng tụng được lập lại ý nghĩa trên.

c) An lạc:

Thân tâm bình an vui vẻ không làm trái ý người, khi có người hỏi đạo dùng pháp Đại thừa mà giải.

Nhưng “chẳng ưa nói lỗi của người và của kinh điển, cũng chẳng khinh mạn các Pháp sư khác, chẳng nói việc hay dở, tốt xấu của người khác. Đối với hàng Thanh văn, cũng chẳng kêu tên nói lỗi quấy của người đó, cũng chẳng kêu tên khen ngợi điều tốt của người đó, lại cũng chẳng sinh lòng oán hiềm”.

Đại Bồ Tát sống xứng hợp với tự tánh chân chính, tự tánh thanh tịnh, nên không bao giờ mở miệng nói người khác lỗi, quấy, hay, dở, tốt, xấu.

Chúng ta phải hiểu rõ rằng một niệm khởi là một sự buộc ràng. Khởi niệm dữ thì tương ứng với cảnh giới địa ngục: khởi niệm lành thì tương ưng với cảnh giới thiên đường: độc hại tương ưng rồng rắn. Từ bi tương ưng cảnh giới Bồ Tát. Trí tuệ tương ưng cảnh giới giải thoát.

Lành dữ tuy khác mà gốc tánh lại không nhiễm lành dữ. Bậc đại trí cần phải vượt qua sự tương phân đối đãi này.

Do vậy, khi hành đạo Bồ Tát, chúng ta phải biết “ứng cơ tiếp vật” mà không rời tự tánh thanh tịnh vậy.

Vì khéo tu lòng an lạc như thế nên những người nghe pháp không trái ý, có chỗ gạn hỏi, chẳng dùng pháp Tiểu thừa mà đáp, chỉ dùng pháp Đại thừa vì họ giải nói làm cho đặng bậc “nhất thiết chủng trí”.

“Lại Văn Thù Sư Lợi! Vị Đại Bồ Tát ở đời rốt sau, lúc pháp gần diệt mà thọ trì, đọc tụng kinh điển này, chớ ôm lòng ganh ghét, dua vạy, dối gạt, cũng chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của kia. Nếu hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di hoặc cầu Thanh văn, hoặc cầu Duyên giác, hoặc cầu Bồ Tát đạo, đều không đặng làm não họ, khiến kia sinh lòng nghi hối. Như nói họ: “Các ngươi cách đạo rất xa, trọn chẳng thể đặng bậc nhất thiết chủng trí. Vì sao? Vì các ngươi là kẻ buông lung, biếng trễ đối với đạo, lại nữa cũng chẳng nên hý luận các pháp. Với tất cả chúng sinh khởi tưởng đại bi, với tất cả chúng sinh đều bình đẳng nói pháp. Vì thuận theo pháp nên chẳng nói nhiều, chẳng nói ít, nhẫn đến người rất ưa pháp cũng chẳng nên nói nhiều”.

Vì lòng thương xót chúng sinh và chẳng hý luận các pháp, nên đối với tất cả chúng sinh đều bình đẳngthuyết pháp. Đối với kẻ ái pháp không nên thuyết nhiều, vì từ đó sẽ mở đường cho tranh luận, trái với pháp tính nhiệm mầu vậy.

Đó là thành tựu hạnh an lạc thứ ba.

d) Đầy đủ lòng từ bi rộng lớn

“Lại Văn Thù Sư Lợi! Các vị Bồ Tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt, có nói kinh Pháp Hoa này với hạng người tại gia, xuất gia sinh lòng đại từ, với hạng người chẳng phải Bồ Tát sinh lòng đại bi”.

Như thế nghĩa là người tại gia hay xuất gia đã trì kinh này tu hạnh Đại thừa, tất cầu quả vui thù thắng Đại thừa. Bồ Tát dùng đại từ tâm mà đem niềm vui đến cho người đó vậy.

Đối với người không tu hành Đại thừa, gọi là “người chẳng phải Bồ Tát” thì Bồ Tát cần đem đại từ bi tâm mà giải trừ cho người ấy lìa các khổ, dẫn đến Đại thừa. Phải nghĩ như thế này: “Những người như thế thời mất lợi lớn, Đức Như Lai phương tiện tùy nghi nói pháp, mà chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu Người đó dầu chẳng hỏi, chẳng hiểu, chẳng tin kinh này, lúc “ta đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, người đó tùy ở chỗ nào ta dùng sức thần thông, sức trí tuệ dẫn dắt họ, khiến đặng trụ trong pháp này”.

Đây là Bồ Tát khởi tâm đại từ bi thương xót những chúng sinh căn trí hạ liệt, không rõ là Như Lai phương tiện tùy thuận theo căn cơ của chúng sinh mà dẫn dắt vào “lý đạo Nhất thừa”.

Do vì căn trí hạ liệt mà những chúng sinh ấy chưa tin, chưa hiểu, chưa nghe, chưa biết, chưa hỏi về lý chân thật của đại thừa, mà tin Phật như các vị trời, thần, tiên, quỷ, chẳng rõ thông lý mầu Phật pháp lại cầu phước báu nhân thiên, xa rời tánh giác, Bồ Tát phải dùng sức đại bitrí tuệ dẫn độ họ đến đại pháp Nhất thừa.

“Văn Thù Sư Lợi! Vị Đại Bồ Tát đó sau khi Như Lai diệt độ, nếu thành tựu đặng pháp thứ tư này, thời lúc nói pháp này không lầm lỗi, thường được Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân, Bà la môn, cư sĩ phải cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, hàng chư thiên nghe pháp cũng thường hầu. Vì sao? vì kinh này được sức thần lực của tất cả các Đức Phật thuở quá khứ, vị lai, hiện tại giữ gìn vậy”.

Đến đây Đức Thế Tôn lại bảo Ngài Văn Thù rằng:

Thí như vua Chuyển Luân,

Thánh Vươngsức mạnh,

Binh đánh giặc có công,

Thưởng ban những đồ vật,

Voi, ngựa và xe cộ,

Đồ trang nghiêm nơi thân,

Và những ruộng cùng nhà,

Xóm làng thành ấp thảy,

Hoặc ban cho y phục,

Các món báu trân kỳ,

Tôi tớ cùng của cải,

Đều vui mừng ban cho,

Nếu có người hùng anh,

Hay làm được việc khó,

Vua mới mở búi tóc,

Lấy minh châu ban thưởng.

Với dụ trên có ý nghĩa là các binh chủng Thánh Hiền đã trừ dẹp các ma, diệt ba độc, ra khỏi ba cõi, lúc đó mới có thể nhận lãnh được giáo pháp Tối thượng thừa hay nhận lãnh Diệu Pháp Liên Hoa này vậy.

Đức Như Lai cũng thế,

Là vua trong các pháp,

Sức nhẫn nhục rất lớn,

Tặng báu đại trí huệ,

Dùng lòng đại từ bi,

Đúng như pháp hóa đời,

Thầy tất cả mọi người,

Chịu các điều khổ não,

Muốn cầu được giải thoát,

Cùng các ma đánh dẹp,...

Phật vì chúng sinh đó,

Nói các món kinh pháp,

Rốt sau mới vì chúng,

Nói kinh Pháp Hoa này,

Như vua thánh mở tóc,

Lấy minh châu ban thưởng,...

Sau khi ta diệt độ,

Người mong cầu Phật đạo,

Muốn đặng tu an ổn,

Diễn nói kinh pháp này,

Phải nên thường thân cận,

Bốn pháp trên như thế

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11171)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16537)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 12023)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12199)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12873)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12843)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10339)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14076)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10297)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13790)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16361)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12078)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13061)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11736)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12759)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10906)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11081)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 11027)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11974)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12887)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11173)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12698)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11439)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12621)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14191)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10941)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10610)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11298)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12093)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13243)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12448)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15450)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14421)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12200)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15497)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12093)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12491)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11282)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12167)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10702)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12623)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13265)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14971)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12787)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16669)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19772)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12367)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13623)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12033)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11719)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12845)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14627)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12710)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15768)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13715)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 13003)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18111)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11260)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12280)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13138)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant