Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

28. Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát

27 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10853)
28. Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát

Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát Thứ Hai Mươi Tám

 

Khi đã thể nhận được rằng:

Pháp thân bất động

Ứng hiện tùy duyên

Khứ lai vô ngại

Liễu triệt tứ sinh

Vô thường thị thường

Ứng cơ tiếp vật

Bản giác thường minh

Thì sự vận hành mới vô trụ vô chấp được.

Phẩm “Phổ Hiền Bồ Tát khuyến pháp” được tuyên bày vào cuối thời “Pháp Hoa Hải Hội” là hiển bày “nhất chân thật tướng pháp giới” làm cho chúng hội liễu triệt được tính “Diệu trạm tổng trì”. Nghĩa là ở nơi thể như như bất độngứng hiện tùy duyên. Trí vàdụng không hai.

Do vậy vào đầu phẩm kinh đã nêu:

“Lúc bấy giờ Ngài Phổ Hiền Bồ Tát dùng sức thần thông tự tại oai đức danh văn, cùng vô lượng bất khả xưng số vị Đại Bồ Tát từ phương Đông mà đến, các nước đi ngang qua khắp đều rúng động”.

Vi Phổ Hiền Bồ Tátbiểu tượng tượng trưng cho “đại hạnh”. Hạnh khắp cả pháp giới là “Phổ”, làm cho muôn loài giác ngộ, thể nhập “tri kiến Như Lai” là “Hiền”. “Bồ Tát Phổ Hiền” và vô số Đại Bồ Tát từ phương Đông mà đến, nghĩa là “đại hành”, chính từ “trí tuệ Bát Nhã” mà hiện hành. Khi đã hiện hành thì sẽ làm cho “các cõi nước đi qua khắp đều rúng động” hay làm cho những tư tưởng lầm chấp của chúng sinh trong tam giới đều tỉnh giác quy hướng về “bản tâm”. Nên đoạn kinh đã viện dẫn:

“Các nước đi ngang qua khắp đều rúng động lại cùng vô số đại chúng Trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà... vây quanh đều đến cõi Ta bà đầu mặt lạy Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đi quanh bên hữu bảy vòng”.

Chính vì “Phổ Hiền Bồ Tát” là “giác pháp”. Hiện hành giác pháp ấy không ngoài “bản giác diệu minh”. Cho nên “Phổ Hiền Bồ Tát” ở nơi nước của “Bảo Oai Đức Thượng Vương Phật”. Nghĩa là “Phổ Hiền hạnh” ở nơi “bản tâm thanh tịnh” của mỗi chúng sinh. Nhưng nước của Đức Phật ấy đối với cõi Ta bà lại rất xa. Cũng như “chân tánh thanh tịnh nhiệm mầu” của mỗi mỗi chúng sinh vốn từ vô thỉ vô chung thường hằng ngự trị nơi mỗi sắc thânchúng sinh đang nhận lãnh. Thế mà chúng sinh lại dùng “vọng tưởng hư minh” để phủ mờ chân tánh, làm cho chân tánh trở thành xa lạ. Nhất là sau khi Như Lai diệt độ ở nơi đời ác năm trược làm thế nào chúng sinh thể nhập được “Tri kiến Như Lai”. Do vậy mà đức Phổ Hiền Bồ Tát đã bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Con ở nơi nước của Đức Bảo Oai Đức Thượng Vương Phật, xa nghe cõi Ta bà này nói kinh Pháp Hoa nên cùng với vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức chúng Bồ Tát đồng đến để nghe. Cúi mong Đức Thế Tôn vì chúng con mà nói đó. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân sau khi Như Lai diệt độ làm thế nào mà có thể đặng kinh Pháp Hoa này?”.

Nghĩa là sau khi Đức Thế Tôn diệt độ việc ngộ nhập “Tri kiến Như Lai” hay thể nhập “Pháp Hoa tam muội” thật là khó vô cùng.

Nhưng nếu chúng sinh nào thành tựu bốn pháp sau đây thì sẽ thể nhập được “Pháp Hoa tam muội”.

1. Phải được các Phật hộ niệm.

Nghĩa là tánh giác phải luôn luôn được giữ gìn.

2. Trồng các cội công đức.

Nghĩa là thể nhận được “tự tánh nhiệm mầu” không sinh, không diệt, năng sinh muôn pháp, nhóm chứa hằng sa phước đứcnhận ra được tự tánh các pháp là không (Chư pháp tùng bổn lai, Thường tự tịch diệt tướng). Ý nghĩa này cũng trùng hợp như trong kinh Pháp Bảo Đàn đức Lục Tổ đã dạy: “Kiến tánh là công - bình đẳng là đức”.

3. Vào trong chánh định.

Nghĩa là ở nơi thể như như bất độngtùy duyên ứng tiếp khách trần.

4. Phát lòng cứu tất cả chúng sinh.

Nghĩa là phải tự giác, giác tha.

Điều đó đã nói rằng: Nếu chúng sinh nào trực nhận bản tâm, dùng trí tuệ Bát Nhã ở nơi thể an định mà ứng cơ tiếp vật, thì chúng sinh đó đã thể nhập “Pháp Hoa tam muội”.

Do vậy mà Đức Thế Tôn đã dạy:

“Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân thành tựu bốn pháp thời sau khi Như Lai diệt độ sẽ đặng kinh Pháp Hoa này: Một là được các Phật hộ niệm. Hai là trồng các cội công đức. Ba là vào trong chánh định. Bốn là phát lòng cứu tất cả chúng sinh”.

Đến đây Ngài Phổ Hiền Bồ Tát bạch cùng Đức Thế Tôn: “Trong đời ác năm trược, nếu chúng sinh nào thọ trì kinh điển này, con sẽ giữ gìn trừ các sự khổ hoạn làm cho đặng an ổn, khiến không ai đặng tiện lợi rình tìm chỗ dỡ mà làm hại đặng”.

Điều đó có nghĩa là nếu mỗi chúng sinh đang sống trong “vọng thức điên đảo” mà biết quay về “tánh giác”. Thể nhập “pháp giới tính nhiệm mầu”. Hiện hành đức tướng vi diệu để giác hữu tình, hay còn gọi là “thọ trì kinh điển này”.Thì đại hạnh bao trùm cả pháp giới ấy chính là “Phổ Hiền Bồ Tát” hộ trì. Như thế mới không còn chỗ để cho những ác tưởng u uẩn dấy khởi tổn hại đến thân tâm được.

Cho nên chúng sinh đó đi, đứng đều ứng hợp với chân như tánh, có trí tuệ tuyệt vời như “tượng vương trắng”. Có đầy đủ sáu pháp Ba la mật như “sáu ngà quý báu của tượng vương”.

Thể nhập lý tánh được như thế mới có công năng xoay chuyển vạn pháp vào nơi “vô tướng bình đẳng chân như pháp tính”. Nghĩa là xoay chuyển các pháp trở về “nhất pháp”. Từ nơi “nhất pháp” mà nảy sinh vô lượng pháp. Đó chính là pháp thân bất động, ứng hiện tùy duyên. Đó là tâm mật triền Đà la ni, bởi vì “triền” có nghĩalà xoay chuyển, “Đà la ni” là tổng trì.

“Xoay chuyểnđể thâu nhiếp vạn pháp, thâu nhiếp vạn pháp để xoay chuyển”.

Cho nên gọi là “người đó hoặc đi hoặc đứng đọc tụng kinh này, bấy giờ con cỡi tượng vương trắng sáu ngà cùng chúng Đại Bồ Tát đều đến chỗ người đó mà tự hiện thân ra để cúng dường thủ hộ an ủi tâm người đó... Do thấy thân con nên liền đặng tam muộiĐà la ni tên là “triền Đà la ni” trăm nghìn muôn ức “triền Đà la ni”, pháp âm phương tiện Đà la ni”.

Do vì hiện hành những đức tướng vi diệu vô trụ vô chấp mà “Nhất thừa pháp” được hiển lộ. Như thấy thân “Phổ Hiền Bồ Tát” mà đặng tam muội và “triền Đà la ni”. Chính sự tổng trì thâm mật ấy mới rời bỏ được “khát ái” rời bỏ ngũ dục. Nên người “đặng chú Đà la ni này không có phi nhân nào phá hoại”. Nghĩa là không còn niệm khởi u uẩn vọng động, cũng không còn “người nữ nào làm mê loạn”. Nghĩa là không còn bị dục vọng cuốn trôi.

Sự thâm mật này được Ngài Phổ Hiền tuyên thuyết bằng một loại ngôn ngữ hàm chứa vô lượng nghĩa không thể nghĩ bàn nên cũng không cần lý giải. Muốn thâm nhập vào loại ngôn ngữ vô lượng nghĩa này thì chúng sinh cần phải đạt thành “vô phân biệt trí” ở nơi thể “hiện nhất thiết sắc thân tam muội” mà giác hữu tình thì sẽ tương ưng thâm nhập. Tâm mật ấy là:

“A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ, đàn đà tu đà lệ, tu đà lệ, tu đà la bà để, Phật đà ba chuyên nể, tác bà đà la ni a bà đa ni, tác bà bà sa a bà đa ni, tu a bà đa ni, tăng già bà lý xoa ni, tăng già niết đà đà ni, a tăng kỳ, tăng già bà dà địa, đế lệ a đọa tăng già đâu lược, a la đế ba la đế, tát bà tăng già địa, tam ma địa, dà lan địa, tát bà đạt ma tu ba lợi sát đế, tát bà tát đỏa lâu đà kiêu xá lược, a nâu dà địa, tân a tỳ kiết lợi diệt đế”.

Cho nên chúng sinh nào trì kinh Pháp Hoa này là hiện hành hạnh Phổ Hiền. “Đại hạnh” này có đầy đủ trí tuệ, từ binhẫn nhục. Nghĩa là chúng sinh ấy đã vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai và được Như Lai lấy tay xoa đầu.

Ngay trong đời ác năm trược mà hiện hành được những đức tướng vi diệu để giác hữu tình thì phải biết đó là sức oai thần của Bồ Tát Phổ Hiền.

“Nếu chỉ biên chép người này mạng chung sẽ sinh lên trời Đao Lợi. Bấy giờ bốn muôn tám nghìn thiên nữ trổi các kỷ nhạc mà đến rước đó. Người đó liền đội mão bảy báu ở trong hàng thể nữ, vui chơi khoái lạc. Huống là thọ trì, đọc tụng ghi nhớ chân chính hiểu nghĩa thú kinh, đúng như lời mà tu hành”.

Với ý nghĩa, nêu chỉ trực nhận được rằng:

- Mỗi chúng sinh đều có “tri kiến Như Lai”.

- Mỗi chúng sinh đều có “tự tánh nhiệm mầu”.

Dụ như người “biên chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa” thì cũng đủ phước báu vô lượng không thể nghĩ bàn. Vì sao ? Vì niềm tin dõng mãnh ấy làm cho hạt giống vô lậu nảy mầm. Không thể dùng sự sung sướngcảnh giới nơi cung trời Đao Lợi mà ví được.

Lại nữa, “nếu có người thọ trì, đọc tụng, hiểu nghĩa thú kinh này, người đó khi mạng chung được nghìn Đức Phật trao tay... lên cung trời Đâu Suất, có trăm nghìn muôn ức thiên nữ quyến thuộc sinh vào nơi đó”.

Bởi vì thọ trì, đọc tụng, hiểu nghĩa thú kinh này là dụ cho sự “minh tâm kiến tánh”, liễu triệt tử sinh. Ánh giác đã bừng lên, đặng môn “Diệt ý tam muội” không còn rơi vào ba đường dữhiện hành các pháp thuần thiện.

Phước báu khôn lường mà kinh đã dụ là: “Lên cung trời Đâu Suất... có trăm nghìn muôn ức thiên nữ quyến thuộc sinh vào trong đó”.

Sự “minh tâm kiến tánh” có lợi ích như thế cho nên “người trí phải một lòng tự chép hoặc bảo người chép, thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chân chính, đúng như lời mà tu hành”.

Muốn giữ gìn, hỗ trợ cho chúng sinh trở về với “chân tánh” hay muốn “giữ gìn kinh này” thì phải thực hành “đại hạnh”. Đại hạnh ấy do sức trí tuệ Bát Nhã từ nơi “bản giác diệu minh” hiển bày. Do vậy mà kinh đã gọi là được “Đức Thế Tôn thủ hộ cho”.

Chúng sinh nào thọ trì kinh này sẽ thể nhập được “Tri kiến Như Lai” nên gọi là “thấy Phật nghe pháp”.

Chúng sinh nào thọ trì kinh này sẽ trừ được tam độc tham, sân, si, đó mới là Phật tử. Nên được “Đức Thích Ca Mâu Ni lấy tay xoa đầu, lấy y trùm cho”.

Người như thế chẳng còn tham ưa ngũ dục, chẳng ưa kinh sách của ngoại đạo, rời bỏ được “vọng tưởng hư minh”. Không còn bị những ý tưởng “ngã mạn, tà mạn, tăng thượng mạn” dấy khởi. Chúng sinh đó sẽ đạt thành hạnh nguyện Phổ Hiền. Và chúng sinh đó chính là “Phổ Hiền Bồ Tát” là “giáo pháp vi diệu” từ nơi “tự tánh nhiệm mầu” hiển hiện viên dung.

Phải biết rằng trong thời kỳ mạt pháp, nếu chúng sinh nào thọ trì kinh này thì “chẳng bao lâu sẽ đến đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.

“Chúng sinh đó sẽ đến đạo tràng phá dẹp binh ma, chuyển pháp luân vô thượng.... rưới mua pháp, ngồi tòa sư tử trong đại chúng trời người”.

Chúng sinh nào trong thời kỳ mạt phápthọ trì kinh này “người đó chẳng còn ham ưa y phục giường nằm, những vật nuôi sống”.

chúng sinh đó đã nhận rõ tướng chân thật của vạn pháp. Dùng trí tuệ Bát Nhã phá dẹp tứ ma: phiền não ma, ngũ ấm ma, tử ma, thiên ma, mà thể nhập “pháp giới tính nhiệm mầu”.

Nếu chúng sinh nào khinh chê người thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa là tự khinh chê mình. Tự chôn vùi Phật tánh của mình, và sống không xứng hợp với chân lý. Niệm niệm sinh diệt như “cuồng lưu” mê muội điên đảo. Như thế “đời đời sẽ không có mắt” hay đời sống trong đen tối.

Tạo tác những điều nhơ nhớp xấu xa thân tâm dao động chẳng khi nào an định, như “kẻ bị hủi lở ngứa ngáy khó chịu”.

Nếu khinh cười tức là kẻ tăng thượng mạn được ít cho là đủ, giống như “kẻ răng nướu thưa thiếu, môi xấu, mũi xẹp”.

Nếu theo tà kiến không nhận rõ chân lý, không tin kinh này thời giống như “kẻ chân tay cong quen, mắt lé thân thể hôi dơ”.

Các tướng trạng ấy để dẫn dụ chỉ cho những chúng sinh đã tự chôn vùi hạt giống Phật nơi mình. 

Vì thế Đức Thế Tôn đã dạy:

“Này Phổ Hiền! Nếu thấy người thọ trì kinh này, phải đứng dậy ra rước, phải kính như Phật”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11171)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16537)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 12022)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12199)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12873)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12843)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10339)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14076)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10296)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13790)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16361)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12078)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13060)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11736)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12759)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10906)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11081)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 11027)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11973)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12887)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11172)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12698)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11439)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12621)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14191)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10941)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10610)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11298)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12093)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13243)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12448)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15450)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14421)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12199)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15497)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12093)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12491)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11281)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12167)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10702)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12623)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13265)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14971)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12787)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16669)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19771)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12366)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13622)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12032)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11718)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12844)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14627)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12710)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15767)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13713)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 13003)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18110)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11260)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12280)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13137)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant