Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quán tánh không theo Trung Quán Luận

17 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 47558)
Quán tánh không theo Trung Quán Luận

QUÁN TÁNH KHÔNG
THEO TRUNG QUÁN LUẬN
Nguyễn Thế Đăng

1. Tại sao phải quán?

Sự thực hành chuyển hóa tâm thức của Phật giáo chủ yếu gồm ba pháp: Chỉ (hay Định), Quán, và Chỉ Quán song tu. Ba pháp này dựa vào ba khả năng của tâm thức con người: Sự tập trung (Chỉ), sự quan sát có khi cộng thêm với sự tưởng tượng (Quán), và thực hành cả hai cái ấy cùng một lúc.

Quán là quán sát (to examine), quán tưởng (to visualize), tưởng tượng (to imagine); các học giả Tây phương dịch chữ Quán bằng ba động từ này. Mục đích của thực hành quán là để thấy sự thật vô ngãvô pháp.

Sanh tử và tạo nghiệp để bị trói buộc vào sanh tử là do thấy có ngã và có pháp. Nói cách khác, sanh tử là do vô minh chấp rằng ngã và pháp là có tự tánh. Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”. Vô minh “quán tưởng” ra sanh tử, như Duy thức tông nói sanh tử là do thức “biến”, nghĩa là thức “quán tưởng” ra. Thế nên, để tiêu trừ cái quán tưởng sai lầmhư vọng này, chúng ta phải quán tưởng ngược trở lại: phải chánh quán rằng tất cả các pháp là vô tự tánh.

Thiền sư Từ Đạo Hạnh (mất năm 1115) đời Lý nói:

Tác hữu trần sa hữu

Vi không nhất thiết không.

Có thể dịch ra là: Lấy cái thức nông cạn mà nhìn thì thấy tất cả đều có. Lấy trí Bát-nhã sâu xa mà nhìn thì thấy tất cả đều Không. “Bổn lai vô nhất vật”, xưa nay không một vật, như Lục Tổ Huệ Năng nói.

Thế nên quán là quán theo trí huệ để thấy bằng trí huệ: đưa cái thấy lầm của thức là có sanh tử trở lại trí huệ soi thấy sanh tử là không tự tánh. Như thế quán là đưa tướng trở về tánh: đưa giả tướng của sanh tử trở về thật tướng của sanh tửvô tự tánh, là tánh Không.

Sanh tử là do thức vô minh (biến kế sở chấp tánh) của chúng ta quán tưởng thành. Thế nên chúng ta phải quán ngược lại, để đưa sanh tử trở về thật tướng của nó là vô tự tánh, là tánh Không.

Niềm tin sai lầm rằng mọi sự có tự tánh là những che chướng ngăn cách chúng ta với sự thật. Sự quán tưởng vô tự tánh sẽ làm những che chướng ấy rơi rụng, dần dần để lộ thực tại, sự thật của tất cả các pháp. Những che chướng ấy là phiền não chướngsở tri chướng, cả hai đều dựng lập trên vô minh căn bảntin tưởng rằng có tự tánh. Xóa tan phiền não chướngsở tri chướng đến một mức độ căn bản, chúng ta sẽ thấy trực tiếp tánh Không, vì thực ra tánh Không vẫn luôn luôn hiện diệntrước mặt chúng ta.

Tánh Không là Nền tảng, Con đường, và Quả của Đại thừa. Tánh Không là nền tảng của tất cả các tông phái Phật giáo. Bốn tông phái chính của Phật giáo Tây Tạng đều y cứ trên tánh Không, nhất là y cứ vào Trung Đạo của Bồ-tát Long Thọ.

Chẳng hạn, sự quán tưởng Bổn tôn (yidam) trong Kim Cương thừa, từ lúc khởi đầu, chặng giữa, cho đến cuối cùng đều y vào tánh Không. Mọi nghi thức (sadhana) của các tông phái đều tuân thủ trình tự này. Trước tiên, quy yphát Bồ-đề tâm, rồi từ trong tánh Không quán tưởng dĩa mặt trời, mặt trăng, trên đó quán tưởng Bổn tôn xuất hiện. Quán tưởng Bổn tôn hòa nhập vào mình và tụng chú của Bổn tôn… Phóng ánh sáng đến tất cả chúng sanh… Cuối thời khóa, mọi hiện tượng thế giớichúng sanh tan hòa vào hành giả với tư cách là Bổn tôn, rồi hành giả tan hòa vào tánh Không và Tịnh Quang. Cuối cùng quán sát tánh Không cho đến khi không thiền định nữa thì hồi hướng.

Theo các đại sư Tây Tạng, sự quán tưởng sắc thân của Bổn tôn (tức là Báo thânHóa thân của Bổn tôn) sẽ khiến hành giả có được Sắc thân, tức là Báo thânHóa thân. Đây là sự tích tập công đức. Đồng thời, phải quán tưởng hình tướng ấy là vô tự tánh, tuy xuất hiện nhưng vô tự tánh như những cầu vồng. Sự quán tưởng vô tự tánh hay tánh Không này khiến hành giả có được Pháp thân. Đây là sự tích tập trí huệ. Nói theo ngôn ngữ kinh Bát-nhã, quán sắc để tích tập công đức, và quán “sắc tức thị Không” là để tích tập trí huệ. Cả hai sự tích tập này được làm đồng thời, theo các đại sư Tây Tạng, là một điểm đặc sắc của Kim Cương thừa.

Tánh Không là cái chung nhất của hành giả, với thế giới, với chúng sanh, với Bổn tôn và với chư Phật. Tánh Không ấy còn được gọi là Pháp thân.

2. Quán tánh Không theo Trung Quán luận.

Trung Luận, như tất cả các luận khác của Phật giáo, không phải chỉ nằm ở bình diện lý luận và phân tích. Điều quan trọng là những lý luận phân tích là để thực hành. Phật giáo đi theo tiến trình Văn (nghe, đọc), Tư (tư duy, phân tích) và Tu (thực hành). Nếu chỉ xem Trung Luận như một tác phẩm triết học xuất sắc như các học giả Tây phương thường quan niệm thì rất uổng vì đã bỏ mất phần thực hành của nó.

Chính vì để thực hành quán tưởng nên mặc dù nhan đề của ngài Long ThọTrung Luận hay Trung Đạo Luận, nhưng về sau, các đại sư Trung Hoa (nhất là Tam Luận tông) lại thêm vào chữ Quán thành Trung Quán luận. Điều này cũng hợp lý vì mỗi phẩm theo bản dịch của Cưu Ma La Thập đều bắt đầu bằng chữ Quán hay Phá. Chẳng hạn phẩm I, Phá Nhân Duyên. Phẩm VII, Quán Tam Tướng. Thật ra tất cả các tác phẩm của ngài Long Thọ đều dùng chữ Pariksa, được David J. Kalupahana dịch là Examination (khảo sát, quán sát). (Xem Mulamadhyamakakatika of Nagarjuna, David J. Kalupahana dịch và chú dịch, Delhi 1996).

Trung Quán luận có tất cả 27 phẩm, 27 chủ đề để quán tánh Không.

Ở đây chúng ta chỉ nói sơ lược về một phẩm, Quán về Pháp, phẩm XVIII, gồm có mười hai bài kệ, để tìm hiểu pháp quán của Trung Quán luận. Điều chúng ta có thể ghi nhận là Quán về Pháp, tức là Pháp niệm xứ, một trong Bốn Niệm Xứ (Thân niệm xứ, Thọ niệm xứ, Tâm niệm xứ, và Pháp niệm xứ) chung cho tất cả Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Bắc truyền.

Muốn thực hiện pháp quán, chúng ta phải có một mức độ tập trung, một mức độ định căn bản, và định càng sâu thì quán càng có hiệu lực. Định càng sâu thì quán càng rõ.

1. Nếu ngã đồng nhất với năm uẩn, thì ngã là sanh diệt. Nếu ngã khác với năm uẩn thì ngã phải có những tính chất chẳng phải năm uẩn.

Chữ ngã ở đây với chữ tự tánh đồng nghĩa, chúng ta có thể dùng chữ nào cũng được. Nếu cho là có một cái ngã bất biến, thì một là nếu ngã đồng nhất với năm uẩn, ngã phải sanh diệt. Điều này không thể. Hai là ngã khác với năm uẩn thì ngã chẳng dính dáng gì với năm uẩn. Điều này cũng vô lý. Thế nên các pháp không có ngã, không có tự tánh.

2. Không có ngã thì làm sao có cái gì thuộc về ngã? Ngã và cái thuộc về ngã diệt mất nên được gọi là trí vô ngã.

Khi không thấy có ngã và những cái thuộc về ngã, đó là trí huệ thấy được tánh Không, gọi là trí vô ngã.

3. Đạt được trí vô ngã, đó là thật quán. Đạt được trí vô ngã, người ấy là hiếm có.

Thật quán là thấy ngã và pháp đều không có ngã, không có tự tánh. Trí vô ngã này đạt được khi bước vào Kiến Đạo vị hay Thông Đạt vị. Còn gọi là Con đường Thấy (the path of seeing), theo cách dịch của Tây phương. Trí vô ngã là thấy trực tiếp tánh Không, không còn qua lý luận, phân tích, quan sát, nên còn được gọi là Căn bản trí hay Tự nhiên trí.

4. Ngã thì ở trong, cái thuộc ngã thì ở ngoài, cả hai diệt hết trở thành không có. Các thọ cũng diệt mất, thọ diệt thì thân diệt.

Nếu thân diệt tức là hết thân kiến, thật thấy tánh Không. Hết thân kiến là được Nhập Lưu (vào dòng), tầng bậc đầu tiên trong bốn bậc Thánh của con đường A La Hán. Đó cũng là địa đầu tiên thật thấy Pháp thân tánh Không trong mười địa của con đường Bồ-tát.

Bằng sự an trụ trong định và quán tưởng liên tục, các phiền não chướngsở tri chướng lần lần tiêu diệt, để lộ bày tánh Không. Thật thấy trực tiếp tánh Không được Thiền tông gọi là Thấy Tánh (Không). Một khi thật thấy tánh Không người ta sẽ đi tiếp cho đến khi tánh Không trở thành viên mãn. Giai đoạn này Đại thừa nói chung là “Tu Tập vị”, “Con đường thiền định”, hay “sự chứng từng phần Pháp thân”.

5. Do nghiệp và phiền não diệt, thì gọi là Giải Thoát. Nghiệp và phiền não vốn không thật, khi ấy nhập vào tánh Không, các hý luận diệt hết.

Nếu kiên trì đi hết con đường Tu tập hay Con đường Thiền định, người ta đến được Con đường Không còn tu nữa (Vô công dụng đạo), hoàn toàn giải thoát. Sự giải thoát hoàn toàn được cả Nam tôngBắc tông gọi là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Đại thừa còn gọi là Vô sanh pháp nhẫn.

6. Chư Phật hoặc thuyết giảng về ngã, hoặc thuyết giảng về vô ngã. Trong thật tướng của tất cả các pháp, không hề có ngã và chẳng phải ngã.

Trong tánh Không, ngã và chẳng phải ngã chỉ là vọng tưởng hý luận. Như Lục Tổ nói “Bổn lai vô nhất vật”.

7. Thật tướng của tất cả các pháp thì dứt tuyệt ngôn ngữtâm hành, không có sanh không có diệt, vốn tịch diệt như Niết-bàn.

Quán tánh Khôngthật tướng của tất cả các pháp, trong đó không có mọi ý niệm, ngôn ngữ, và tâm hành, không sanh cũng không diệt. Không sanh và không diệt vì, “Các pháp không sanh ra từ chính nó, không từ cái khác mà sanh, cũng không từ cả hai, cũng không phải không có nhân, thế nên, biết các pháp vốn vô sanh”, như câu kệ đầu tiên của phẩm I, Quán Nhân Duyên.

8. Hết thảy pháp đều thật, vừa thật vừa chẳng thật, và chẳng phải thật chẳng phải phi thật. Đó là pháp của chư Phật.

Quán tánh Không lìa tứ cú (bốn câu: có, không, vừa có vừa không, chẳng phải có chẳng phải không), tuyệt bách phi (dứt hết một trăm cái “chẳng phải”). Lìa tứ cú, tuyệt bách phi là một câu nói thường dùng trong Thiền tông. Chúng ta có thể nhớ đến bài kệ “Câu có, câu không” của vua Trần Nhân Tông.

9. Tự chứng biết, không theo ai, tịch diệt không có hý luận. Không khác, không phân biệt. Đó chính là thật tướng.

Khi quán thấy được tánh Không, thì tánh Không tự hiển bày trước mắt. Tánh Không tự hiển bày khi các tướng sai khác hư vọng đã tịch diệt.

10. Nếu pháp theo duyên sanh, thì pháp ấy không phải đồng nhất cũng không phải khác biệt với nhân. Đó gọi là thật tướng, chẳng đoạn cũng chẳng thường.

Ngộ được thật tướng, nhập được thật tướng, thì thoát khỏi sanh tử, và có thể giúp người khác thoát khỏi sanh tử.

11. Chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải thường cũng chẳng phải đoạn. Đó là vị cam lồ mà chư Thế Tôn giáo hóa.

Chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, đó là công án hay thoại đầu mà một vị tu Thiền theo phái Lâm Tế phải thấu qua. Thấu qua được thì vượt qua Tổ sư quan hay sanh tử quan.

12. Nếu Phật không xuất hiệnthế gian, khi Phật pháp đã mất ở thế gian, các vị Bích Chi Phật do xa lìa tướng mà phát sanh trí vô ngã này.

Trung Luận để phá tất cả các tướng. Khi các tướng đều được xa lìa thì trí huệ Bát-nhã và tánh Không, cả hai hợp nhất, xuất hiện. Kinh Kim Cương nói: “Lìa tất cả các tướng gọi là chư Phật”.

Tóm lại, Trung Quán luận, gồm 27 phẩm, là 27 pháp thực hành quán tưởng. Do công phu quán tưởng hằng ngày, ít nhất chúng sẽ bớt phiền não, bớt khổ đau, vì phiền não và khổ đau là do chấp ngãchấp pháp. Khi phiền não và khổ đau bớt đến đâu thì tự nhiênhạnh phúc an lạc đến đó.

Đối với người quyết tâm cao hơn, nghiên cứu (Văn), tư duy (Tư), thực hành (Tu) liên tục, có khi may mắn có được sự hướng dẫn của những thiện tri thức, sẽ có lúc thực sự bước vào con đường đạo, thấy trực tiếp và sống được tánh Không, và tiếp tục đi cho rốt ráo, viên mãn.

Chúng ta hãy chấm dứt bằng một đoạn trong Bài ca Chứng Ngộ trong Hang Tịnh Quang của Milarepa:

Thúc đẩy bởi động lực sâu xa, bao lakiên cố

Của Bồ-đề tâm được phát động mạnh mẽ

Tôi nhìn trở đi trở lại vào tánh Không nền tảng

Với sự chăm sóc dịu dàng không chểnh mảng

Thoát ngoài mọi hy vọngthất vọng.

Hãy biết rằng tôi đã du hành qua con đường thiền định tốt đẹp này

Giờ đây tôi nhìn nó với quán thấy tỏ suốt.

Hãy biết tôi đã đến trong xứ sở không còn phải du hành;

Hãy biết tôi có bột mà không cần xay.

Hãy biết rằng tôi đang xem quang cảnh không thể thấy.

Hãy biết rằng tôi đã tìm ra quê nhà phúc lạc.

Hãy biết rằng tôi đã tìm ra người phối ngẫu thường hằng.

Hãy biết rằng tôi cung cấp lợi lạc cho chính tôi và những người khác.

Đây là những kho tàng của Milarepa…

 

Văn Hóa Phật Giáo số 142
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22474)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21763)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23324)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21188)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21766)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22227)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20053)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21948)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24745)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18986)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30972)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23984)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27763)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26510)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38126)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18436)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19957)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19042)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23148)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18709)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15847)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18854)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19666)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20151)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19952)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16418)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16917)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26064)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18849)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24057)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29129)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22900)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30950)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21007)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26265)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23322)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19849)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28960)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20689)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19432)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30489)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36423)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33227)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35559)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20978)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21915)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25260)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25797)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31257)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant