Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thập Thiện Nghiệp Đạo Trong Đời Sống Tại Gia

26 Tháng Tư 201506:20(Xem: 5711)
Thập Thiện Nghiệp Đạo Trong Đời Sống Tại Gia

 THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO
TRONG ĐỜI SỐNG TẠI GIA

Thích Thiện Bảo


Thập Thiện Nghiệp Đạo Trong Đời Sống Tại GiaI. KHÁI NIỆM TỒNG QUÁT:

Có một số người cho rằng đạo Phật qúa cao sâu mầu nhiệm, người thường trong thế gian khó có thể thực hành được. Chỉ có những người thoát khỏi sự trói buộc của cuộc đời như vào chùa hay tu viện mới mong thực hiện được những gì mà Phật dạy. Nói cách khác có người cho rằng giáo lý đạo Phật chỉ dành cho những tăng lữ. Đây là một quan niệm sai lầm của những người chưa hiểu được đạo Phật hoặc chỉ biết đạo Phật qua một vài quyển sách viết với tinh thần chủ quan lệch lạc.

Trái lại giáo lý đạo Phật không phải chỉ dành cho một số người mà của mọi người, giáo lý đó không có sự phân biệt miễn người đó biết áp dụng thực hiện những gì đức Phật dạy. Ngài Xá Lợi Phất (Sariputta) nói: "Một người có thể sống trong rừng miệt mài với sự tu tập khổ hạnh, nhưng cũng có thể đầy những tư tưởng xấu xa, bất tịnh, một người khác có thể sống trong làng mạc hay thị thành ,không thực hành kỷ luật ép xác nhưng tâm người đó có thể trong sạch không có cấu bẩn. Trong hai người ấy, Ngài Xá Lợi Phất bảo người sống trong sạch giửa làng mạc thị thành nhất định là cao cả hơn người sống trong rừng nhiều".

Qua đó chúng ta thấy người Phật tử tại gia trong giáo lý đạo Phật không phải là không có phần mà Đức Phật đã xác định " thừa tự pháp " không phải chỉ dành cho Tăng sĩ (các vị xuất gia) mà là của mọi người. Có người hỏi, nếu một người theo Phật giáo ứng dụng tinh thần Phật dạy trong đời sống tại gia, tại sao đức Phật còn lập đoàn thể Tăng già?. Chúng ta biết rằng đời sống của một Phật tử tại gia có nhiều rằng buộc, khó có thể hy sinh trọn vẹn cho nhiều người, trong khi mộøt vị Tăng vì không có nhiệm vụ gia đình, không bị ràng buộc trong đời sống thế tục, chính vì thế mà đức Phật mới hình thành giáo đoàn. Vì chính Tăng đoàn góp phần duy trì phát triển nền tảng giáo lý của Phật.

II. NGƯỜI PHẬT TỬ TẠI GIA GIÁC NGỘ PHÁP ĐỂ TU:

1/ Niềm tin của Phật Tử trước khi đi đến giác ngộ:

Giác ngộ là một đặc tính của đạo Phật và chính vì lẽ đó mà người Phật tử khi hiểu giáo lý đạo Phật một cách tường tận mới đem áp dụng thực hành ,nếu chưa tường tận mà tu tập là một việc làm nông nổi không đúng tinh thần Phật dạy.Trong lịch sử các tôn giáo trên thế giới không co một tôn giáo nào có tự do tư tưởng như Đức Phật, vì theo Ngài con ngườigiải thoát được hay không, không phải ai khác mà chính sự trực nhận chân lý,chứ không phải huyền năng bên ngoài ban thưởng cho sự vâng lời đó. Đức Phật xác định: " Các người nên làm công việc của mình, vì các đức Như Lai chỉ dạy con đường mà thôi "Đức Phật là bậc đã giác ngộ, nghĩa là đã bừng tỉnh, ra khỏi cơn mê của tâm ý thức trong đời sống hiện tượng, tương đối. Vì đã giác ngộ, nên Ngài đã dùng gần năm chục năm của cuộc đời Ngài, tận tụy dạy dỗ chúng sinh, giơ cao ngọn đuốc soi đường, mong cứu chúng sinh ra khỏi vô minh, do lầm nhận đời sống tạm bợ, được xây dựng nên bởi tham, sân, si, rồi tạo nghiệp, trả quả báo, như những sợi dây xích nối lại thành vòng tròn xoay vần không có ngày ra.

Trong một bài kinh Kamala đức Phật dạy: "Nầy những người Kamala,không nên chấp nhận điều gì

chỉ vì nghe nói lại. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì tập tục cổ truyền để lại như thế.Không nên chấp nhận điều gì bởi vì lời đồn đãi. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì được ghi chép trong kinh sách, do ức đoán như vậy, suy diễn như vậy, do nhận thấy bề ngoài. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hợp với thành kiến của mình, hình như có thể chấp nhận được. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì nghĩ rằng vị tu sĩ thốt ra, điều ấy được kính trọng từ trước.

Chỉ tin sau khi các người hiểu rõ ràng, những điều nầy phù hợp với luân lý; những điều nầy không bị khiển trách, những điều nầy được các bậc thiện trí thức tán dương, nếu thực hiện điều nầy sẽ được an vui hạnh phúc, thì các người hãy hành động đúng như vậy ".

2/ Giác ngộ pháp gì để tu?.

a/ Ngũ thưà Phật giáo:

Trong nền giáo lý đạo Phật các nhà phán giáo có chia ra nhiều thừa khác nhau nhưng phổ biến nhất là ngũ thừøa Phật giáo. Chử Thừa được hiểu là xe, giáo pháp của Đức Phật ví như cổ xe có thể chở người vượt qua phàm đến thánh, chính vì thế các nhà Phật học dùng từ nầy để chỉ cho đại thừa(xe lớn) hoặc tiểu thừa(xe nhỏ). Tuy nhiên viêc phân chia nầy chỉ có tính cách ví dụ chỉ cho tâm của người tu chấp chặc hay buông xả mà thôi chứ thực ra thời Phật không bao giờ phân biệt đại, tiểu. Ngày nay Phật giáo trên thế giới cũng rất ít dùng từ "đại thừa" hoặc "tiểu thừa" vì tránh đi sự phân hoá tinh thần "lục hoà cộng trụ" của Tăng già; thay vào đó dùng "Phật giáo phát triển" ( đại thừa) và "Phật giáo nguyên thủy" ( tiểu thừa). Vậy ngũ thừa là gì?.

L à năm con đường hay năm phương pháp đi đến giác ngộ, tùy theo căn cơtrình độ của từng cá nhân chọn phương pháp thích hợp để ứng dụng tu có kết qủa, Phật giáo gọi đây là " khế cơ " trong nền giáo lý đạo Phật . Con đường đến với đạo Phật trước tiên phải giác ngộ rồi sau mới ứng dụng tu,nếu không hiểu mà tu là một việc sai lầm dễ rơi vào tà kiến, cho nên người tu Phật và học Phật phải là người sáng suốt biết chọn lựa phương pháp ( trạch pháp), niềâm tin mà không hiểu là tin mù quáng.Đạo Phật đã từng dạy: "đến để mà thấy, chớ không phải đến để mà tin".Vì lẽ đó sự chọn lựa là một nhu cầu cần thiết của người Phật tửngũ thừa Phật giáo là bản đồ chỉ cho người giác ngộ đến với đạo Phật.

b/Ứng dụng ngũ thừa Phật giáo:

Nhân thừa: Nếu muốn ứng dụng nhân thừa việc trước tiên phải phát tâm quy y Tam bảo, đây chính gieo duyên với Phật, Pháp, Tăng trong nhiều đời. Bước kế tiếpthọ trì năm giới, đây chính là nền tảng của Phật giáo nhằm xây dựng cho con người có một nhân cách hoàn thiện của một con người thực sự là người như: Không giết hại chúng sanh (sát sanh) không tham lam trộâm cắp (trộm cắp), không lang chạ ngoại tình (tà dâm), không nói lời dối tra (vọng ngữ)ù, không say sưa rượu chè (uống rượu). Đây chính là nền tảng đạo đức Phật giáo xuyên suốt từ xuất gia lẫn tại gia đều dựa vào năm giới nầy làm căn bản. Nếu ứng dụng vào đời sống hiện tại là một con người có nhân cách đạo dức, một gia đìnhhạnh phúc,một làng xã hoà thuận và một xã hội thanh bình. Nếu một con người biết thực hành ngũ giới hiện tạian lạc cho tự thân và gia đình sẽ hạnh phúc và tương lai sẽ sanh trở lại làm người có nhân cách một con người.

Thiên thừa: Con đường sanh lên cỏi trời nếu người đó thực hiện mười pháp thiện (thập thiện) gọi thông thường là Thập thiện nghiệp đạo được chia làm 2 phần:t iêu cực và tích cực.

Mười điều lành tiêu cực: Chúng ta chỉ dừng lại ở phần làm hay nói cách khác không tạo nghiệp ác, dựa trên tam nghiệp(ba nghiệp: Thân nghiệp có 3 ( sát, đạo, dâm), khẩu nghiệp có 4 ( không nói dối, không nói ly gián, không nói thêu dệt, không nói ác khẩu) và ý nghiệp có 3 (Không tham lam, không nóng giận và không tà kiến hay còn gọi là không si mê) .

uMười diều lành tích cực: Chúng ta bước lên một bước tích cực hơn là đem thập thiệp đi vào đời sống, biến tinh thần thập thiện bằng hành động cụ thể:

§ Về thân: Không giết hại chúng sanh mà phải lòng từ ra cứu vớt chúng sanh, không gian tham trộm cắp còn biết đem tài sản vật chất ra bố thí giúp đở mọi người, không tà dâm mà còn trinh bạch thủy chung. Chuyển hoá những hành động xấu phát xuất từ thân trở thành những hành động đẹp, có ích cho người cho mình. Chính hành động chuyển hoá nầy tích cực góp phần làm cho Thân được thanh tịnh ngay trong đời sống hiện tại

§Về miệng: Không nói dối mà phải biết nói lời chân thật, không nói ly gián(lưỡng thiệt) mà phải biết nói gây được hoà thuận với mọi người, không nói thêu dệt mà phải biết nói đúng lẽ thực và đúng lẽ phải, không nói ác mà phải biết nói nhã nhặn ôn hòa.

§ Về Ý : Không tham lam mà phải biết khởi lòng từ bi đối với mọi người; không sân hận mà còn phải biết nhẩn nhục, không tà kiến mà phải biết chánh kiến.

Kết qủa của pháp tu thập thiệnhành giả sau khi thân hoại mạng chung được sanh về cỏi trời.

Thinh văn thừa: Đây Pháp nền tảng giáo lý đạo Phật nó đưa hành giả từ phàm đến thánh, cho nên khi không hiểu được chân lý tức là không hiểu tứ đế: "không thấy được tứ đếvô minh" .Tứ đế còn gọi là Tứ Thánh Đế hay Tứ Diệu Đế, thường được hiểu là 4 chân lý cao cả chắc thật :

- Khổ đế (Dukkha) : Về sự khổ, ngoài tinh thần là bao của khổ , nó còn chứa đựng một ý nghĩa sâu sắc hơn đó là : bất toàn, vô thường, trống rổng, giả tạm. Khổ đế được thể hiện nơi con người như: sanh, già bệnh, chết, thương yêu phải xa lià ( ái biệt ly), mong cầu không được toại nguyệïn (cầu bất đắc), oan gia ghét bỏ mà luôn gặp nhau(oán tắng hội) và năm ấm không được đều hoà ( ngũ ấm xí thạnh khổ)...

- Tập đế (Samudaya) : Nguồn gốc của khổ: Tất cả những khổ đau không phải ngẫu nhiên mà có,mà nó bắt nguồn từ những nguyên nhân: tham lam, sân hận , si mê, mạn, nghi, ác kiến, kiết thủ, giới cấm thủ,tà kiến .Tập hợp những nguyên nhân tạo thành ngã chấp mà sanh ra khổ đau.

- Diệt đế (Nirodha): Sự chấm dứt khổ: Muốn trừ dệt mọi khổ đau con người phải đoạn trừ tham ái vì ái là gốc tạo ra khổ .Con đường chấm dứt và đoạn trừ ái đạt được Niết Bàn, đó chính là sự chấm dứt dục vọngkinh Pháp Hoa gọi :" Như củi hết lữa tắt " . Một khi hành giả đạt được con đường đi đến Niết Bàn sẽ thành tựu tứ thánh qủa ( Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na HàmA La Hán) .

- Đạo đế ( Magga) : Con đường đưa đến sự chấm dứt khổ: Con đường nầy Phật gọi la con đường trung đạo vì nó tránh hai cực đoan đó là qúa chạy tìm h ạnh phúc thông qua con đường dục lạc. Con đừơng nầy gọi là 37 phẩm trợ đạo gồm có:

Bốn món niệm xứ ( Tứ Niệm xứ): Quán thân bất tịnh, quán tâm vô thường, quán Pháp vô ngãquán thọ thị khổ.

Bốn món chánh cần ( Tứ Chánh cần): Tinh tấn ngăn ngưà những điều ác chưa phát sanh đừng cho nó sanh; Tinh tấn dứt trừ những điều ác đã phát sanh đừng cho nó tăng trưởng ; Tinh tấn làm cho điều lành chưa phát sanh làm cho nó phát sanh; Tinh tấn phát triển làm những điều lành đã phát sanh làm cho nó tăng trưởng.

Tứ như ý Túc ( Bốn phương pháp đi đến thiền định ): Dục như ý túc; Tinh tấn như ý túc;
Nhất tâm như ý túc; Quán như ý túc.
Ngũ căn, ngũ lực:

- Ngũ căn: tín căn , tấn căn, Niệm căn, định căn, huệ căn.
- Ngũ lực: tín lực , tấn lực,Niệm lực, định lực và huệ lực.

t Bảy phương pháp đi đến giác ngộ ( Thất Bồ Đề phần ): Trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi, Niệm giác chi, định giác chi và xã giác chi.

t Bát chánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy ,chánh ngữ, Chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, Chánh niệm,chánh định .

Người Phật tử chân chính là người thấy cuộc đời : "Như thật tri kiến ", cho nên không khổ đau, sầu muộn, sợ hải, lo âu...Người Phật tử khi tu pháp Tứ đế làngười có hạnh phúc giửa nhân gian, luôn luôn bình an giải thoát không bị cuộc đời làm điêu dứng đảo điên vì họ thấy được đúng như thật về cuộc đời.

Duyên giác thừa: Đây là con đường của hành giả tu theo 12 nhân duyên( thập nhị nhân duyên) bao gồm: Vô minh, hành , thức, danh sắc, lục nhập, xúc,thọ, ái, thủ, hữu , sinh, lão, tử. Do thấu rõ lý duyên sinh của mọi pháp nên hành giả đạt được qủa Duyên giác . Đây là con đường chấm dứt sự khổ đạt được qủa vị Niết Bàn.

q Bồ tát thừa: Đây là con đường thực hành Bồ tát hạnh cũng chính là con đường độ tha " vì lợi ích chúng sanh" trên bước đường đi đến Phật qủa, đó là pháp lục độ. Còn gọi là 6 phương pháp đưa người qua bên kia bờ giải thoát: Bố thí Ba la mật, Trì giới ban la mật, Nhẩn nhục ba la mật, tinh tấân ba la mật, Thiền định ba la mậttrí huệ ba la mật.

c/G iác ngộ lý nhân quả & luân hồi:

Giác ngộnhân quả: Mọi sự vật hiện tượng trên thế gian nầy nếu chúng ta đem ra khảo sát thì không có sự vật hiện tượng nào không có nhân quả mà hình thành. Nó không phải do ai đặt ra mà là một quy luật chung của thiên nhiên, chi phối toàn bộ cuộc sống của con người cũng vạn vật. Đối với đạo Phật thì nhân quảyếu tố quan trọng, trong việc xây dựng niềm tin cho người học Phật: " tin nhân quảchánh tín, không tin nhân quảmê tín".

- Định nghĩa: Nhân là nguyên nhân, qủa là kết qủa của nguyên nhân đó tạo nên .Nhân là năng lực tác động ,quả là sự thành tựu của năng lực tác động đó

- Những quan niệm sai lầm về nhân quả: cho rằng, bất cứ một sự vật nào có mặt do bàn tay của đấng sáng tạo hoặc hoàn cảnh giàu nghèo, hạnh phúc hay khổ đau của con thường đổ thưà cho số mạng hay do Ông Trời, Thượng Đế như Nguyễn Du đã nói: " Bắt phong trần phải phong trần, cho gian lao phải chịu phần gian lao". Đối với Phât giáo tất cả đều có nhân của nó không phải do "đấng sáng tạo" nào sắp đặt hoặc do " số mạng an bài " hay do " ngẫu nhiên" hên sui mai rũi mà có.
- Đặc tính của nhân quả: Chúng ta có thể tóm tắt nhân quả trong 4 câu.

Dục tri tiền thế nhân
Kim sanh thọ giả thị
Dục tri hậu thế qủa
Kim sanh tác giả thị

( Muốn biết nhân đời trước , hảy nhìn quả đời nay mình hưởng.
Nếu muốn biết quả đời sau hảy nhìn nhân đời nay mình tạo).

- Sự lợi ích khi hiểu nhân quả: Sau khi hiểu được lý nhân quả người Phật tử không còn bị quan niệm sai lầm làm mê mờ mất hết ý chí tự chủ chính mình. Chính sự hiểu biết nhân quả giúp chúng ta lạc quan tin tưởng hơn vào chính mình ở hiện tại cũng như tương lai.

Trong đời sống hằng ngày của người con Phật hiểu được nhân quả là một quy luật cho nên khi làm việc gì, nói lời nào đều phải nghĩ đến kết quả mà mình tạo ra trong đời sống.

Lý luâ n hồi (Samsera):

Vấn đề có hay không có luân hồi trong đời sau, nó làm cho con người băng khăng, thắc mắc từ nhiều đời nay. Nhìn ở góc độ Phật giáo sự luân hồâi được hiểu như một qúa trình chuyển hoá, biến đổi xê dịch của mọi sự vật hiện tượng trong thế gian.

- Định nghĩa: Chử Samsera là bánh xe, người Trung Hoa dịch là Luân ,còn chử hồi là xoay tròn. Hình ảnh bánh xe quay là một hình ảnh nhằm để chỉ sự luân hồi của chúng sanh xuống lên trong lục đạo(trời, người,A Tu la, điạngục, ngạ quỹ và súc sanh ) .

- Nhìnvào mọi sự vật từ đất nước gió lửa chođến con người đều biến đổi từ trạng thái nầy sang trạng thái khác, từ đời sống nầy sang đời sống khác chúng ta nếu pân tích có thể giải thích trên cơ sở khoa học.

- Khi hiểu được sự luân hồi chúng ta không còn quan niệm sai lầm về thân phận mình và luôn luôn cố gắng vươn lên vì chết không phải là mất hẳn. Chính hiểu được như vậy cho nên chúng ta thực hiện những điều tốt đẹpcố tránh những điều xấu xa trong hành động, tư tưởng ngõ hầu tránh rơi vào nơi khổ đau khi bước vào một đời sống khác.

III.XÁC ĐỊNH THIỆN ÁC THEO QUAN NIỆM PHẬT GIÁO:

Trong mọi xã hội thiện ác là những quy ước theo từng phong tục tập của mỗi quốc gia khác nhau, ở đây cho là tốt nơi khác cho điều đó là xấu. Quốc gia nầy cho điều nầy là phải nơi khác lại cho là sai. Sự đúng sai phải trái ở từng lúc từng nơi khó có ranh giới nhất định ,ơÛ đây Phật tử chúng ta tu theo Phật và học Phật căn cứ vào lời Phật dạy để xác định quan niệm sống đúng với Chánh pháp.

1/ Thế nào là thiện ác?

a)Định nghĩa thiện ác: Những gì có lợi cho mình, cho người trong hiện tại đến tương lai gọi là thiện. Ngược lại những gì có hại cho mình và người hiện tại đến tương lai là ác.

Như được trình bày ở trên, khi đánh giá thiện ác phải nhìn toàn diện không nên chỉ căn cứ ở một khía cạnh đạo đức đơn thuần của một quốc gia một dân tộc thông qua 3 nghiệp: thân, khẩu, ý

b)Những quan niệm Thiện ác của thế gian: Có người cho tằng "ăn hiền ở lành" là thiện ? và chính từ câu nầy mà Nho giáo cố đưa quan niệm Thiện ác của mình vào đời sống băng những câu: " tâm hành từ thiện hà tu nổ lực khán kinh" (Lòng hằng từ thiện ,cần chi gắng sức xem kinh) hoặc " Vô cầu thắng bố thí, cẩn thủ thắng trì trai"( không tham cầu hơn là bố thí, khéo giử gìn nề nếp hơn là trì trai).

2/ Mười Nghiệp lành :

a) Định nghĩa : Tiếng Phạn là Karma có nghĩa là hành động tạo tác qua thân klhẩu ý và điều nầy trong Kinh Tăng Nhất A Hàm Đức Phật nói: " Nầy các Tỳ kheo Như Lai nói tác ý tức là nghiệp vì có ý muốn làm mới có hành động thân khẩu ý ". Như vậy mười nghiệp lành là 10 điều giúp cho con người thực hiện trong sạch hoá thân khẩu và ý .

b) Các loại nghiệp:

Về phương diện thời gian:

  • Thuận sanh nghiệp: là nghiệp đem lại trong kiếp kế tiếp.
  • Hiện báo nghiệp: Là nghiệp gây ra trong kiếp hiện tại và có kết quả tức thì.
  • Hậu báo nghiệp: đời nầy tạo nghiệp đời sau mới có quả.
  • Vô hiệu nghiệp:Nghiệp tạo ra theo lẽ phải bị quả báo nhưng không đủ yếu tố phát khởi nên trở thànhvô hiệu.

Về phương năng lực( khả năng báo ứng )

  • Cực trọng nghiệp : Đây là nghiệp tạo tội ngũ nghịch( Giết cha, giết Mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật bị thương chảy máu,Phá hoà hợp tăng).
  • Cận tử nghiệp: Nghiệp nầy đến lúùc thân sắp mất mới phát khởi.
  • Tập Quán nghiệp: Thói quen trong một đời hay nhiều đời do tập quán để lại.
  • Tích lũy nghiệp: do nhiều đời nhiều kiếp tạo nên mỗi lần mỗi ích trở thành nghiệp.

IV .NỘI DUNG THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO:

N hư đã trình bày ở trên con người sở dĩ khổ đau trong hiện tại cũngnhư luân hồi sinh tử ,nguyên nhân chính là do chính tự thân tạo ra . Muốn chuyển đổi hoàn cảnh chính mình việc trước tiên chúng ta phải biết chọn cho mình một hướng đi hay nói cách khác chúng ta phải biết giao nhân để gặt quả. Đó mới chính là con người khôn ngoan. Con đường thiết thực góp phần xây dựng bản thân,chuyển hoá hoàn cảnh không thể không thực hành thập thiện. Thế giới ngày nay nhân loại tranh giành chém giết lẫn nhau, đạo đức của một số người cũng từ đây mà suy thoái, giửa người với người mất hết tình thương yêu qúi trọng chỉ còn là lòng đố kî hơn thua.Đó chính là do con người tạo 10 ác nghiệp.cho nên Tổ Huệ Viễn nói: " Mười nghiệp lành nầy ,nếu có thể từ một nhà,một làng (xã) đến một quốc giathực hành thì thuần phong mỹ tục,hình phạt của xã hội sẽ giảm bớt, cá nhân đó được an lạc,gia đình được hạnh phúc, quốc gia sẽ thái bình. Thập thiện nghiệp đạo dựa trên 3 thành tố : Thân khẩu và ý nghiệpphát khởi.

1/ Thân nghiệp chia làm 3 loại:

a) Không sát sanh: Các nhà nghiên cứu Phật phân tích cho rằng : " Sát sanh là cắt đứt sự sống,tâm vật lý của một chúng sanh, ngăn chặn sức tiến của năng lực một đời sống". Có 5 yếu tố tạo nên nghiệp sát : - Có một chúng sanh, biết rằng đó là một chúng sanh, ý muốn giết, cố gắng để giết và giết chết chúng sanh đó.

b) Không trộm cướp: Không phải là tài sản vật sở hữu của mình mà mình chiếm đoạt bằng cách nầy hay cách khác đều là tội trộm cướp. Có 5 yếu tố cấu thành tội trộm cướp: Một vật sở hữu của người khác; Biết đó không phải là của mình mà mình tìm cách lấy; Cố ý muốn chiếm đoạt; Cố gắng thực hiện ý định chiếm đoạt đó và thành tựu ý trộm.

c) Không tà dâm: Không phải là vợ ø chồng ,không có hôn phối với nhau mà có mối quan hệ như vợ chồng đó là tà dâm. Tà dâm được chia làm 4 loại: Phi phận dâm ( k hông phải là hôn phối mà quan hệ với nhau); Phi thời dâm ( là vợ chồng nhưng quan hệ với nhau không phải lúc); Phi xứ dâm ( quan hệ không đúng nơi đúng chổ,trái với bình thường) và Phi nhân dâm (quan hệ với loài không phải người).

2/ Khẩu nghiệp chia làm 4:

a) Không Vọng ngữ: " Vọng ngữ được hiểu như lời nói không thật nhằm mục đích mưu cầu lơị ích riêng tư ". Có ý giả dối,Ý muốn người khác hiểu sai sự thật; thốt ra lời nói làm cho người khác hiểu lệch đi .Vọng ngững được chia làm 3 loại: Đại vọng ngư õ(Không chứng đạo mà cho mình chứng để người khác tôn trọng ); Tiểu vọng ngữ ; Phương tiện vọng ngữ .

b) Không nói thêu dệt ( ỷ ngữ): Không trao chuốc thêu hoa dệt gấm, không ngon ngọt chết người nhằm mục đích dụ dỗ đưa ngươi vào nơi nguy hiểm.

c) Không nói lưỡi hai chiều ( lưỡng thiệt):Không đến người nầy nói chuyện bên kia, đến bên kia không nói chuyện bên nầy.

d) Không nói lời hung ác ( ác khẩu):

3/ Ý nghiệp chia làm 3:

a) Không tham lam: Tham được hiểu như là lòng dục của chúng sanh bao gồmngũ dục: ( tài dục,sắc dục, danh dục , thực dụcthùy dục). Đây là năm loại dục làm cho con người tham đắm không thể thoát được sự trói buộc của nó.

b)Không sân hận: Lòng giận được các vị tổ sư xem như cửa ngỏ của các tội ác " Nhứt niệm tâm sân khởi,bá vạn chướng môn khai" ( một niệm sân nổi lên thì các cửa khác đều mở) hay " nhứt niệm tâm sân khởi năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn" ( Một niệm sân nổi lên sẽ thiêu tất cả muôn ngàn công đức ).

c) Không si mê: đối với Phật giáo nguyên thuỷ loại thứ ba nầy được gọi là tà kiến. Đây là sự vô minh không nhận ra lẽ thực chỉ chấp chặc những hư dối không thật có,đưa đến chấn ngã,chấp nhân...

V.ỨNG DỤNG THẬP THIỆN VÀO ĐỜI SỐNG TẠI GIA:

Chúng ta biết rằng con đường đi đến Tam thưà đều lấy thập thiện nghiệp đạo làm nền tảng.vì thập thiệnsức mạnh ngăn chặn những hành vi ác , nó cũng có công dụng đối trị với hành vi bất thiện. Đối với Phật tử tại gia thập thiệncon đường, phương pháp chuyển hoá hoàn cảnh bản thângia đình xã hội, khi chúng ta áp dụng thập thiện hằng ngày.

1/ Cải tạo bản thân: Do nghiệp lực thúc đẩy, chi phối đưa con người đến khổ đau, nếu bản thân chúng ta biết áp dụng điều lành xa rời điều ác, do đó đời nầy an vui đời sau sanh vào cỏi lành.Nếu một người biết ứng dụng tu thập thiệp nghiệp đạo vào đời sống tức là người đó tự mình làm cho nhân cách đạo đức của mình được chuyển hoá.

2/ Cải tạo hoàn cảnh: Tất cả mọi sự việc trong cuộc đời nầy đều do mình làm chủ chứ không phải ai khác. thế giới ngày nay thiên tai dịch bịnh làm điêu dứng con người ,sự thống khổ không biết đâu mà cùng Nếu chúng ta biết chuyển biến chính mình xây dựng gia đình thì hoàn cảnh cũng từ đó phát sanh hoàn cảnh tốt.Khôngthể ngồi đó trách đất than trời.

3/ Chánh nhân thiên giới: Tu tập thập thiện nguyên nhân sanh về cỏi trời có phước báu hơn người, nó cũng là nhân lành thoát khỏi sanh tử khổ đau khi ba nghệp thanh tịnh.

KẾT LUẬN:

Đức Phật là đấng y vương biết bệnh mà cho thuốùc ,tuỳ theo tâm bệnh ấy Ngài dạy những phương pháp khế với hoàn cảnhcăn cơ của chúng sanh đễ giúp cho người đó đi đến con đường giải thoát.Nếu tu thập thiện thân tâm của chúng ta sẽ được cải thiện, hoàn cảnh sống cũng nhờ đó được thay đổi tránhxa những ác pháp do nhờ thực hành thiện pháp . Điều nầy Ngài Điều ngự Giác Hoàng thời Trần đã phát tâm thực hạnh đầu đà đi khắp hang cùng ngõ hẻm của những vùng nông thôn Việt Nam với mục đích duy nhấttruyền bá tinh thần thập thiệp nghiệp đạo, cũng vì lợi ích cho mọi người

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22472)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21748)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23318)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21182)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21762)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20418)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24736)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30969)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23977)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27758)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26504)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38117)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19949)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19032)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23140)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22903)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15844)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18842)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19645)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20147)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19948)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18111)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16409)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39227)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26051)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20094)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18843)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24049)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29108)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30939)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20998)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26849)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20666)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26246)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15824)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19839)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28949)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20681)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19413)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30482)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36415)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33201)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35539)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20967)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21910)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25252)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25786)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31236)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant