Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tổng Quan Kinh Duy Ma

09 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6095)
Tổng Quan Kinh Duy Ma

KINH DUY MA
Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải

Ghi Sau Khi Duyệt Duy Ma

Trái với tiểu thừa nói đời Phật chỉ có đức Di lạc là bồ tát, đại thừa nói đời Phật, mà ngay trong nhân loại, ít nhất cũng có những vị bồ tát sau đây, ghi theo Thế giới Pg thông sử, tập thượng, trang 136.

1. Văn thù đại sĩ,

2. Thiện tài đồng tử,

3. Bảo tíchDuy ma, 500 người ở thành Tì da li.

4. Hiền hộ, với 16 người ở thành Vương xá.

Ấy là sách trên đã sót hoàng hậu Thắng man, và chắc còn sót không ít.

Về nhóm Hiền hộ 6 người thì nhiều chỗ nói đến, Phật học đại từ điển trang 214 ghi lại tạm được. Theo đó, họ toàn là tại gia. Nhưng Thế thân bồ tát nói họ có đủ mọi sự bất khả tư nghị của bồ tát (luận Pháp hoa, cuốn thượng). Tên của họ thì kinh Tư ích cuốn 1 kê đầy đủ, còn luận Trí độ chỉ lược kê 6 người nhưng có vài chi tiết được ghi rõ.

Đây là danh sách mà kinh Tư Ích kê đủ.

1. Hiền hộ bồ tát,

2. Bảo tích bồ tát,

3. Tinh đức bồ tát,

4. Đế thiên bồ tát,

5. Thủy thiên bồ tát,

6. Thiện lực bồ tát,

7. Đại ý bồ tát,

8. Thù thắng ý bồ tát,

9. Tăng ý bồ tát,

10. Thiện phát ý bồ tát,

11. Bất hư kiến bồ tát,

12. Bất hưu tức bồ tát,

13. Bất thiểu ý bồ tát,

14. Đạo sư bồ tát,

15. Nhật tạng bồ tát,

16. Trì địa bồ tát.

Còn luận Trí độ lược kê.

1. Bạt đà ba la, cư sĩ bồ tát (Hiền hộ bồ tát), người thành Vương xá.

2. Bảo tích, vương tử bồ tát (Bảo tích bồ tát), người thành Tì da li.

3. Hoàng đức, trưởng giả tử bồ tát (Tinh đức bồ tát), người nước Chiêm ba.

4. Đạo sư, cư sĩ bồ tát (Đạo sư bồ tát), người nước Xá vệ.

5. Na la diên, bà la môn bồ tát (Đế thiên bồ tát), người nước Phù thê la.

6. Thủy thiên, ưu bà tắc bồ tát (Thủy thiên bồ tát).

Ngoài ra, 16 vị la hán mà Pháp trú ký nói, cũng gọi là 16 đại sĩ, "vâng huấn dụ của Phật, vĩnh viễntại thế giới này mà tế độ chúng sinh". Danh sách các ngài, kể cả Phạn tự, được kê rõ trong Phật học đại từ điển, trang 2844 và 211. Trong số đó, đứng đầutôn giả Tân đầu lô, thứ 11 là tôn giả La hầu la, thứ 16 là Châu lị bàn đà, 3 vị có trong kinh Di đà. Nhưng Pháp trú ký là do tôn giả Nan đề mật đa la nói ra, bách kỷ 8 sau Phật nhập diệt. Nói tại Tích lan, mở đầu có câu" Như lai đã nói kinh Pháp trú, nay chỉ lược lại". Mười sáu vị la hán ở đây "được gọi là đại sĩ, vâng huấn dụ của Phật, vĩnh viễntại thế giới này mà tế độ chúng sinh", thì đại sĩđại bồ tát, có thể nói được như vậy.

*

Đại thừa, cỗ xe của bồ tát, có thể tổng quát vào trong 3 câu mà luận Trí độ đã nói. Đó là thích ứng với nhất thế trí, đại bi đứng đầu, không thủ đắc là phương tiện. Nhất thế trí là tuệ giác của Phật; đại thừa thì chí nguyệnđời sống phải thích ứng với tuệ giác đó. Đại bitừ bi rộng lớn; đại thừa thì phải thương mà gánh vác lấy chúng sinh. Không thủ đắc là tánh không; đại thừa thì phải từ đó mà làm sạch thế giới, làm nên chúng sinh. Tương tự 3 câu trên đây, kinh Đại nhật cũng nói tâm bồ đề làm nhân tố, đại bi làm căn bản, phương tiện làm hoàn thành. Đừng lầm lẫn phương tiện là tùy tiện. Phương tiệnáp dụng nhưng phương cách khéo léo để ích lợi chúng sinh, hội nhập tuệ giác.

Nhìn lại Duy ma thì thấy kinh này chủ não là Bát nhã, văn phong là Hoa nghiêm.

Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt. Với 2 tâm này, Duy ma cho thấy có thể, và cần phải, sử dụng và hoạt dụng đến thành ra diệu dụng, đối với toàn bộ cuộc đờiviệc đời. Bao nhiêu kyՠthuật công nghệ, bồ tát thì phải học, phải làm và phải dạy, đã đành, chính trị, quân sự, Duy ma cũng không bỏ. Thế giới càng xuống dốc, bồ tát càng có mặt và ra sức. Do vậy, bồ tát không phải được đề cao mà là bị đòi hỏi, phải "bất khả tư nghị".

Duy ma là như vậy. Nên học tập và truyền bá kinh này là "đi theo đường đi của đức Thế tôn".

Mười sáu tháng 5, 2537

Trí quang


(1) Trước hết hãy biết một vài ghi chú. Ngài Huyền tráng ghi: Đến Phệ xá ly (Tì da li)... Tây bắc cung thành cách năm sáu dặm có 1 già lam, cạnh già lam có 1 ngôi tháp, đó là chỗ xưa Phật nói kinh Tì ma la cật (Duy ma). Đông bắc cách ba bốn dặm có 1 ngôi tháp, đó là nhà cũ của Tì ma la cật. Nhà này hãy còn nhiều sự linh dị. Cách đó không xa, có 1 phòng chất đá làm ra, đó là chỗ Tì ma la cật hiện bịnh thuyết pháp. Bên cạnh có nhà cũ của Bảo tích, nhà cũ của Yêm ma la nữ. (Chính 55/235).

Ngài Khuy cơ ghi: Phệ xá li, dịch Quảng nghiêm. Nước này chu vi có 8000 dặm. Đại đô thành nước này nay tuy đổ nát, nhưng nền cũ vẫn còn, chu vi sáu bảy mươi dặm. Nền thành vương cung chu vi bốn năm dặm. Phía tây bắc cung thành cách năm sáu dặm có một ngôi già lam, học tập Chánh lượng bộ. Cạnh ngôi già lam này có 1 ngôi tháp, Phật đã ở đây nói kinh Vô cấu xưng, chỗ mà bấy giờ trưởng giả tử Bảo tánh dâng lọng. Phía bắc ngôi già lam cách ba bốn dặm là vườn Yêm la nữ, được đem hiến Phật và Ngài thường ở đấy. Đông bắc ngôi già lam cách ba bốn dặm thì có nhà cũ của Vô cấu xưng. Cách nhà không xa, có 1 nhà thần, hình dáng như chất gạch, truyện nói rằng đó là phòng chất đá mà thành, và là chỗ Vô cấu xưng hiện bịnh thuyết pháp. Cách chỗ này không xa, có 1 ngôi tháp, đó là nhà cũ của Bảo tánh. Cạnh nhà này không xa, là nhà cũ của Yêm ma la nữ... Yêm ma laẤn độ có trái yêm ma la. Thành này có nữ nhân lấy tên theo trái ấy, nên gọi là Yêm ma la nữ. Yêm ma la nữ có khu vườn hơn hết..., sau đem hiến Phật, và Ngài thường du ngụ (Vạn 29/196AB).

Ngài Thái hư ghi: Đời Đường có Vương Huyền Sách từng đến Ấn độ. Bấy giờ nhà của ngài Duy ma đang còn. Ông vốn ngờ kinh này nói nhà này nhỏ mà chứa được 900 vạn người và 32000 tòa sư tử cao lớn. Tòa sư tử thì xác định lớn, mà nhà không biết nhỏ đến đâu. Ông lấy hốt mà đo chu vi nhà thì 4 phía đều được 10 hốt. Mỗi hốt 1 thước, tức 1 trượng. Do vậy mà tán thán thần lực của ngài Duy ma. Ngài Huyền tráng cũng đến Ấn độ, từng đến nhà ngài Duy ma. Nhìn cái nhà nhỏ, bụng nghi kinh nói không thật, muốn viết lên vách nhà để tỏ ý mình. Nào ngờ chấm bút muốn viết thì vách với người chung cục cách nhau mãi mà không gần được, sờ cũng không thấu, gần trọn ngày mà không viết được chữ nào. Ngài gác bút mà tán thán di tích còn thế, huống chi thần lực xưa kia (Thái hư toàn thư, 866).

Tham chiếu các kinh khác, như kinh Nguyệt thượng nữ v/v, chép ngài Duy ma họ Lôi, vợ là Kim cơ, con trai là Thiện tư, con gái là Nguyệt thượng. Vậy ngài Duy ma là người thật đời Phật (Thái hư toàn thư 903).

Vài ghi chép trên đây chứng tỏ ngài Duy ma không những là người thật thời Phật, mà còn 1 vị đại cư sĩ, đại bồ tát đến có thể gọi là bồ tát bất khả tư nghị. Thế nhưng tại sao sách vở của cái Phật giáo gọi là nguyên thỉ xưa nay ghi về đệ tử tại gia danh tiếng của Phật không thấy ghi về ngài. Tất phải có một sự húy kào đó. Thời Phật, nói bồ tát chỉ có đức Di lạc, là sai. Ngoài đức Di lạc, và ngài Duy ma, nổi tiếng còn có hoàng hậu Thắng man, nhất là có 16 người gọi là nhóm Hiền hộ. Tất cả đều không được sách vở Phật giáo nguyên thỉ ghi đến.

Nhưng ở đây xác định ngài Duy ma là một vị đại bồ tát. Dầu kinh ngài nói là nói về bất khả tư nghị đi nữa, không thể vì vậy mà cho là nhân vật giả tạo, bồ tát giả tạo.

(2) Kinh này được kê có 6 bản dịch. Nhưng trong Đại tạng hiện còn chỉ có 3 bản. Thứ nhất là của Cung minh Chi khiêm. Thứ hai là của dịch giới chi vương La thập. Thứ ba là của Đại đường tam tạng Huyền tráng. Tức các số 474, 475, 476 của Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu (Chính 14/519-588). Bản thứ hai là định bản. Phật giáo đại sự biểu của Lương Khải Siêu ghi bản ấy xuất hiện năm 406 (Phật học nghiên cứu, phụ lục bài 1, trang 16).

Bản thứ hai có cái tên Duy ma cật sở thuyết bất khả tư nghị giải thoát pháp môn kinh: bản kinh mà ngài Duy ma cật nói về pháp môn giải thoát tên bất khả tư nghị. Vậy gọi là kinh Duy ma là gọi tắt tên người, nhưng phần chính kinh Duy ma là sự Bất khả tư nghị.

Bản dịch thứ hai này của ngài La thập được hầu hết các vị đại sư danh tiếng chú thích, trong đó có các ngài Tuệ viễn, Trí giảCát tạng. Nhưng quí nhất, căn bản nhất, chính là bản Chú Duy ma kinh của chính ngài Tăng triệu, thuật lại lời ngài La thập, ngài Đạo sanh và lời mình (Vạn 27/170-278). Bản này là tài liệu chính yếu mà tôi căn cứ để dịch giải kinh này. Ngoài ra, bản dịch thứ ba của ngài Huyền tráng thì có chính ngài Khuy cơ chú sớ (Chính 29/182-322). Dĩ nhiên bản dịch thứ ba và bản chú sớ này tôi tham khảo rất nhiều.

Cũng nên nói thêm, bản dịch thứ hai của ngài La thập không những nổi tiếngnghĩa lý mà còn nhất là vì văn chương. Thi hào Vương Duy đời Đường lấy hiệu Ma cật, là lấy tên ngài Duy ma đó. Chưa hết. Các tác giả từ chương và kịch khúc còn lấy cảm hứng ở đoạn thiên nữ hiến hoa trong phẩm 7. Học giả Hồ Thích đã nói kinh này là hài kịch triết lý.

Như đã thấy, kinh này gọi tắt là kinh Duy ma, nhưng chủ yếu là sự bất khả tư nghị. Từ ngữ này có nghĩa là sự việc không thể nghĩ và bàn một cách bình thường. Ở đây cũng có chút ít cái ý bất khả tư nghịsiêu việt tư duy mô tả, là tâm hành xứ diệtngôn ngữ đạo đoạn.

Trọn kinh Duy ma, từ đầu đến cuối, từ đại thể đến chi tiết, đều là bất khả tư nghị. Bối cảnh và nội dung bất khả tư nghị ấy không phải chỉ có một chiều. Tuy nhiên phần chính vẫn là trực tiếp và gián tiếp tấn công tiểu thừa. Nên kinh Duy ma đại thừa này mà không bị cái gọi là Phật giáo nguyên thỉ gạt đi, ngài Duy ma không bị không ghi đến, mới là điều đáng ngạc nhiên.

(3) Sự bất khả tư nghị đầu tiên là kinh Duy ma đề cao cư sĩ. Thế nhưng không phải đề cao là nói làm sao cho vai trò cư sĩ cao lên.

Tăng bảo dĩ nhiênthiểu số, trong đạo cũng như ngoài đời. Phật cũng không khuyến khích lắm hay tìm cách làm cho ai cũng xuất gia. Nhưng hàng xuất giaTăng bảo. Tăng bảo mà bất xứng thì bản thân Tăng bảoPhật giáo phải rán chịu, chứ địa vị Tăng bảo không ai có thể thay thế.

Trong kinh Duy ma, vị cư sĩ này biện tài vô ngại. Không một thanh văn hay bồ tát nào gặp ông mà có thể đối thoại. Thế nhưng, trừ đoạn tôn giả Phú lâu na trong phẩm 2, các vị tỷ kheo có lạy ngài Duy ma. Ngoài ra, lễ nghi tăng già cư sĩ không có chỗ nào sơ suất. Vậy đề cao cư sĩ là đề cao thế nào?

Bản chất của Phật pháp là không phải chỉ đặc biệt giành cho ai. Ai cũng có phần Phật pháp. Nhưng là cái phần đúng theo giới pháphình thức giới pháp. Như vậy nói chỉ có Tăng bảo mới hoằng pháp là sai, và dĩ nhiên cũng là sai nếu nói cư sĩ chỉ hộ pháp. Trừ sinh hoạt kiết ma, tất cả Phật tử, Tăng bảo cũng như cư sĩ đều tùy vị trí mà làm mọi việc Phật. Có điều làm như vậy, nếu là xuất gia thì tương đối dễ hơn, vì, như kinh Ưu bà tắc nói, bồ tát có 2, có tại giaxuất gia. Xuất gia làm việc bồ tát thì không khó, tại gia làm việc bồ tát mới khó hơn, vì tại gia thì bị bao nhiêu điều phiền nhiễu.

Do vậy mà Duy ma là một hình ảnh cư sĩ bất khả tư nghị. Hình ảnh đó, trước hết kinh này muốn có.

(4) Phật xuất thế, đầu tiên thiết lập Tăng bảo ngay nơi vị trí thanh văn. Thanh văn mà phạn hạnh dĩ lập, bất thọ hậu hữu, ấy là đã rốt ráo. Sự thiết lập này, về sau, vừa làm cho Tăng bảo ngày càng xa với Phật quả, vừa làm cho Phật pháp ngày càng hẹp hòi. Mục đích luận của Phật giáo lại chẳng phải chỉ là la hán. Vì lẽ đó, sau khi đưa Tăng bảo đến thanh văn rồi thì tất nhiên Phật phải hướng dẫn họ bước tới nữa. Thậm chí ngang đây, Pháp hoa công nhậnthanh văn mà không công nhậnniết bàn của thanh văn.

Phật, sau thanh văn thì tất nhiên đưa đến bồ tát. Bồ tát không phải chỉ là cái thân tối hậu của một đức Phật, không phải chỉ là vị trải qua 100 kiếp tu bách phước tướng hảo, cũng không phải chỉ là vị được thọ ký thay Phật. Bồ tát được quan niệm như vậy là của tiểu thừa. Đại thừa thì ai cũng có thể làm Phật. Phật có bao nhiêu phẩm chất mà La hán không có. Làm Phật thì phải bằng giai đoạn bồ tát. Đại thừa nói rõ tâm ta tưởng Phật thì tâm ấy là Phật, tâm ấy làm Phật. Nghĩa là ai cũng có thể làm bồ tát, không kể tại gia hay xuất gia. Mà tại gia có khi còn có cơ hội hơn.

Khi hướng dẫn thanh văn thì Phật bảo phạn hạnh dĩ lập, bất thọ hậu hữu. Khi thăng tiến thanh văn làm bồ tát thì Phật bảo tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh (làm sạch thế giới, làm nên chúng sinh). Chính vì vậyDuy ma đóng góp vào việc thăng tiến này. Thế nhưng sự bất khả tư nghị ở đây không phải ở nơi ngài Duy ma, mà chính là ở nơi các vị thanh văn đóng cái vai trò bị khiển trách để thực hiện ý muốn của Phật.

(5) Đặc biệt là Thuyết hữu bộ, sau khi chiếm Thượng tọa bộ, trọng luận hơn kinh, trước tác nghiêm mật, làm cho sinh khí linh động của Phật giáo, nhất là Phật giáo thời Phật, gần như mất hẳn. Chính điều này đã sản sinh hoạt động của các bộ phái, đặc biệtđại thừa, đặc biệt là kinh Duy ma. Kinh này cực kỳ linh động, trong tư tưởng cũng như trong ngôn ngữ. Do vậy, cái sinh khí trung đạo linh động của thời Phật dầu không sống lại được hoàn toàn, kinh Duy ma cũng phá vỡ được những hình thức cứng nhắc, những sinh hoạt tự cao và cô lập, phá vỡ cái Phật giáo Thuyết hữu bộ. Tất cả những gì gọi là bất khả tư nghị trút hết cho việc thứ 4 ở trên thì nay lại càng trút hết cho việc thứ 5 này.

(6) Thống quán toàn bộ Duy ma, trước hết thấy hay nói đến nhất là sự phát bồ đề tâm và chứng vô sinh nhẫn. Phát bồ đề tâmchí nguyện đại thừa. Vô sinh nhẫn là nhẫn sự vô sinh phiền não (tức gần như vô sinh trí, sau tận trí, nói theo tiểu thừa).

Thống quán như vậy tự lộ ra toàn bộ Duy ma là nói về tịnh độ. Kinh này có 14 phẩm, trừ 2 phẩm sau là phần lưu thông, còn 12 phẩm trước toàn là nói về tịnh độ.

Tịnh độ của kinh Duy ma trình bày thật là linh động. Từ phẩm 1 nói tâm tịnh độ tịnh, đến phẩm 12 nói muốn được tịnh độ thì phải đi theo đường đi của Phật.

Duy ma nói về tịnh độ dưới nhiều sự việc và dạng thức thật là bất khả tư nghị, đề cao và lấy làm tiêu ngữ 2 câu tóm tắt hết thảy bồ tát hạnh, ấy là làm sạch thế giới, làm nên chúng sinh.

Có một chi tiết nhỏ cũng đáng nói đến. Tức như cái phòng của ngài Duy ma, ở đây không nói là báo độ như các nơi khác, mà nói theo ngôn ngữ Duy mabất khả tư nghị. Lại còn một chi tiết nữa, tuồng như Đông phương tịnh độ (Bất động như lai) thịnh hành trước cả Tây phương tịnh độ (Di đà như lai).

(7) Thế nhưng vấn đề vẫn chưa hết. Phải có sự so sánh chút ít giữa Duy maPháp hoa. Pháp hoa đối với tiểu thừa thì nhận là phương tiện bước đến đại thừa. Pháp hoa nói thanh vănnội bí bồ tát hạnh, ngoại hiện thanh văn tướng. Pháp hoa thọ ký cho tiểu thừa cuối cùng thành Phật tất cả. Duy ma không như vậy. Duy ma linh hoạt, bất khả tư nghị, lấy chúng sinhphiền não làm đất bùn mọc lên hoa sen. Thế nhưng 2 lần ngài Ca diếp than mất phần, không có khả năng để làm gì được nữa về sự bất khả tư nghị, thì rõ ràng Duy ma tấn công mà không hội qui tiểu thừa.

22.10.2535.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10347)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12233)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15356)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16650)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12253)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11523)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14315)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24664)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10727)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12527)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10436)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12384)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11695)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12081)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13044)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11487)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17489)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21481)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10710)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19325)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12456)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26101)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14423)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13759)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16889)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17636)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13178)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12560)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11649)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11659)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20520)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19056)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19647)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18733)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15096)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15085)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14027)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15553)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14589)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15899)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12917)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18496)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15812)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11120)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53745)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13037)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16610)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15465)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 20002)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15606)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15395)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15200)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10427)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20432)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15556)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13086)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20286)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13331)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29054)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11759)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant