Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Phần Giải Thích Giáo Nghĩa

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6686)
6. Phần Giải Thích Giáo Nghĩa

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
(大乘起信論; S. Mahāyāna Śraddhotpāda Śāstra)
Thích Nhật Từ
(Bài dạy tại lớp Cao Đẳng Phật học TP.HCM, khoá IV-2005)

BÀI 6
PHẦN GIẢI THÍCH GIÁO NGHĨA 

CHÂN NHƯ TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ

 

I. ĐẠI Ý

Từ góc độ bản thể, bản chất chân như vốn vượt lên trên sự mô tả của ngôn ngữ và biểu đạt. Từ góc độ ngôn ngữ, để thiết lập truyền thông và như một phương tiện giáo dục phá chấp, chân như có thể được trình bày qua hai phương diện phủ định và khẳng định một cách như thật. Mặc dù vay mượn và sử dụng ngôn ngữ biểu đạt nhưng phải hiểu rằng cả hai phương diện trên đều vượt khỏi thế giới phân biệt của ý thức nhị nguyênđối đãi.

II. NGUYÊN VĂN

Hai phương diện của chân như: Cũng cần nói thêm rằng nếu dựa vào sự phân tích[1] ngôn ngữ thì chân như có thể được trình bày qua hai phương diện. Một là “tính phủ định (không 空) một cách như thật,”[2] theo nghĩa, nó không hạn cuộc[3] trong các thuộc tính bất thật [của các sự vật], trên cơ sở đó, biểu thị thể chân thật (tức thể chân như)[4] một cách trọn vẹn.[5] Hai là “tính khẳng định (bất không 不空) một cách như thật,”[6] theo nghĩa, tự thể của nó chứa đủ các hạt giống công đức siêu thế.[7] 

Như thật không: Cái được gọi là “tính phủ định một cách như thật”[8] từ trong bản chất,[9] không hề bị ô hợp[10] với bất kỳ sự vật ô nhiễm nào.[11] Nghĩa là vượt lên trên các thuộc tính sai biệt của sự vật, vì không còn tâm niệm phân biệt sai lầm.[12] 

Nên biết rằng tự tánh của chân như chẳng phải là cái hiện hữu (phi hữu tướng), chẳng phải là cái không hiện hữu (phi vô tướng), cũng chẳng phải là cái “phủ định hiện hữu” (phi phi hữu tướng), lại càng chẳng phải là cái “phủ định cái không hiện hữu” (phi phi vô tướng) và cũng chẳng phải cái “vừa hiện hữu vừa không hiện hữu” (phi hữu vô câu tướng), chẳng phải là “đồng nhất” (phi nhất tướng), chẳng phải là “dị biệt” (phi dị tướng), chẳng phải cái “phủ định đồng nhất” (phi phi nhất tướng), chẳng phải cái “phủ định dị biệt” (phi phi dị tướng), chẳng phải “vừa đồng nhất vừa dị biệt” (phi nhất dị câu tướng). 

Nói tổng quát,[13] do vọng tâm nên tất cả chúng sinh thường xuyên phân biệt nhưng tất cả phân biệt đó đều không xác hợp[14] với chân như nên nói là “không.” Nếu hết vọng tâm thì thật cũng không có cái “tính không” để nói.[15]

Như thật bất không: Cái được gọi là “tính khẳng định (bất không) một cách như thật,” như đã trình bày, chính là thể của sự vật (pháp thể) vốn là “không,” không hề hư vọng; còn gọi là chân tâm tồn tại vĩnh hằng, đầy đủ các hạt giống thanh tịnh, nên gọi là “tính khẳng định” (bất không = có). Tính khẳng định đó cũng không có tướng trạng gì để nắm bắt, vì đã vượt ngoài thế giới phân biệt. Phải thực chứng mới có thể cảm nhận được điều này.[16]

III. NHẬN XÉT

Tiếp theo phần giải thích về bản chất của chân như vốn vượt lên trên ngôn ngữ, các phương tiện biểu đạt và các mặc định phân biệt, trong bản văn nêu trên, tổ Mã Minh giới thiệu về chân như qua hai phương diện của ngôn ngữ. Nói cách khác, dù bản chất chân như của mọi sự vật có thể được diễn tả một cách tương đối bằng ngôn ngữ nhưng phải hiểu ngôn ngữ mô tả đó không phải là chân như. Như vậy, hành giả có thể nương vào tướng của ngôn ngữ để chỉ bày một cách tương đối bản thể của chân như.

“Như thật không” chính là tự thể không của mọi sự vật hiện tượng. Như thật cũng chính là chân như. Như là trạng thái bình đẳng, không biến đổi. Thật là tính chất không sai lệch. Chân như từ phương diện “như thật không” vốn không ăn nhập gì với tất cả sự vật hiện tượng nhiễm ô, lại cũng không dính líu gì đến hình thái hay tính chất sai biệt của sự vật hiện tượng. Bởi vì trong giai đoạn này, hành giả đã không còn thái độ nhận thức phân biệt nhị nguyên. Các phân biệt nhị biên đối đãi chỉ làm cho thế giới hiện tượng vốn sai biệt lại càng sai biệt hơn, vốn phức tạp lại càng phức tạp hơn, đồng thời tạo ra ranh giới phân biệt đối xử trên nền tảng của bản ngã liên minh, bản ngã quốc gia, bản ngã cộng đồngbản ngã cá thể. Ranh giới bản ngã này tuy vô hình nhưng lại có sức tàn phá nguy hại đến tiến trình hoà hợp và hoà giải trong tất cả các mối quan hệ và đối tác.

Khởi Tín Luận đã nêu ra hai loại bốn mệnh đề (tứ cú) của triết học nhị nguyên nhằm khẳng định rằng chân như của mọi sự vật vốn không lệ thuộc, không bị hạn cuộc, và không có liên hệ gì đến bốn mệnh đề đó. Bốn mệnh đề thứ nhất được mệnh danh là bốn mệnh đề có không (hữu vô tứ cú), bao gồm: mệnh đề có, mệnh đề không có, mệnh đề vừa có vừa không, mệnh đề chẳng có chẳng không; và bốn mệnh đề một khác (nhất dị tứ cú): đồng nhất, dị biệt, vừa đồng nhất vừa dị biệt, chẳng phải đồng nhất chẳng phải dị biệt. Hai loại bốn mệnh đề trên xoay quanh hai quan điểm chínhthường kiến (có; đồng nhất) và đoạn kiến (không có; dị biệt). Chân như của sự vật hiện tượng vốn không hạn cuộc vào trong bất kỳ mệnh đề nào trong các mệnh đề trên. 

Các triết phái và tôn giáo trên thế giới, xưa cũng như nay, đều đặt trên nền tảng của chủ trương hoặc hiện hữu, hoặc không hiện hữu, hoặc đồng nhất hoặc dị biệt. 

Các học thuyết về thế giới quan và nhân sinh quan cho rằng có tính thực thể hay bản ngã thường hằng, bất biến trong mọi sự vật, đều thuộc về chấp hữu hay chấp thường. Các quan điểm hữu kiến hay thường kiến sẽ kéo theo các chủ nghĩa định mệnh và thần ý luận vĩnh viễn hay ngẫu nhiên vĩnh viễn

Các học thuyết về thế giới quan và nhân sinh quan cho rằng không còn hiện hữu tồn tại sau khi sự vật đến giai đoạn hoại diệt, đều thuộc về chấp không hiện hữu hay chấp đoạn. Các quan điểm chấp đoạn sẽ kéo theo các chủ nghĩa duy vật hưởng thụ, thiếu trách nhiệm đạo đức đối với hành vichức nghiệp mà mình theo đuổi

Các quan điểm đồng nhất và dị biệt cũng tồn tại theo cơ chế chấp trước tương tự. Trong thế giới hiện tượng thiên sai vạn biệt, mọi sự vật hiện tượng luôn luôn thay đổi không dừng, cái thuộc ngày hôm qua đã không đứng yên một chỗ, vận động, biến thiên và cái của ngày hôm nay rồi sẽ trở thành quá khứ. Cứ như vậy tiếp tục trôi chảy bất tận. Ấy thế mà, có học thuyết lại cho rằng thế giới hiện tượng không hề biến chuyển, vẫn giữ nguyên tính chất đồng nhất của nó. 

Tương tự, trong bản thể của chân như, mọi sự vật hiện tượng có thể biến thiên theo cách này hoặc cách khác, nhưng thể của nó không tách rời vĩnh viễn giữa cái quá khứ, cái hiện tại và cái vị lai, có mối quan hệ hỗ tương nhân quả, không tách rời khỏi nhau. Cái không sai biệt đó khẳng định rằng dù trong con người vô ngã không thực có chủ thể tạo tác và cảm nhận nhưng các hành vi tác tạo đó vẫn tiếp tục tồn tại với tác giả duyên khởi từ đời này sang đời khác, đến độ đã góp phần tạo thành nhân cách không khác biệt vĩnh viễncon người hay sự vật.

Các nhãn quan có không, nhất dị đều là thiên kiến, như tình trạng của các anh mù, đánh đồng các chi phần của con voi như chân, mình, đuôi, vòi là toàn thể con voi. Tính chất có, không, một, khác chỉ là những biểu hiện tuỳ duyên trong thế giới hiện tượng. Vì là tuỳ duyên trong thế giới hiện tượng nên các biểu hiện đó chỉ có giá trị chân trí trong thế giới sinh diệt, nhưng lại hoàn toàn vô nghĩa trong thế giới chân như. Nói một cách khác, không thể đánh đồng hiện tượng sinh diệt với bản thế chân như bất biến.

“Như thật bất không” là phương diện thứ hai của chân như được biểu đạt trong mối liên hệ với ngôn ngữgiá trị. Trên nguyên tắc, thể của mọi sự vật hiện tượngkhông tính, tức tính không thực thể. Chân tâm thường trú của con người cũng như vậy. Chân tâm thường trú cũng giống như vàng. Nếu vàng không hề bị mất bản chất vàng trong các trang sức phẩm vàng, như xuyến, giây chuyền, cà rá và trang sức phẩm khác, chân tâm bất biến đó cũng không bao giờ bị tăng giảm thật trong thế giới sinh diệt của luân hồi. Trong chân tâm đó vốn có chứa đủ các công đức thuộc về vô lậuxuất thế gian. Mặc dù trong quá trình sinh tử, con người và các loài hữu tình đã từng sống với tâm thức chứa đầy các hạt giống tiêu cựctích cực, tốt và xấu, phàm và thánh, nhưng chất liệu tích cực tuyệt đối ấy vẫn sáng ngời

Trong quá trình sinh tử nhiều đời kiếp về trước, tâm vọng niệm phân biệt của phàm phu đã làm cho chân tâm thường trú bị phủ trùm, giống như mặt trời bị mây mù che phủ. Một khi tâm vọng niệm phân biệt được chuyển hoá tận gốc rễ, lúc bấy giờ, vô lượng công đức xuất thế sẽ xuất hiện. Con người nhờ đó, sống trong an lạc

Thế giới “bất không” của chân như đó là cảnh giới ly niệm. Chỉ khi nào hành giả thực chứng được chân như mới có thể hiểu rõ được bản chất của nó là gì.

IV. CHÚ THÍCH THUẬT NGỮ

tính phủ định một cách như thật: Hán dịch là “như thật không” (如實空 - Lương dịch) hoặc “chân thật không” (真實空 - Đường dịch). Đây là phương thức trình bày bản chất chân như bằng tính phủ định những cái không phải hoặc không bao hàm được nội dung của chân như. Theo công thức này, những gì không thuộc về bản chất và nội dung của chân như sẽ được loại trừ từ từ, cho đến lúc tất cả những cái phi chân như được loại trừ hết thì hành giả sẽ tuệ tri được bản chất của chân như là gì. 

Trọng tâm của công thức mô tả này nằm ở sự loại trừ một cách như thật, chứ không phải loại trừ cảm tính và tuỳ tiện. Ngay cả công cụ ngôn ngữphương pháp biểu đạt phủ định nhằm hiển lộ chân như cũng chỉ được quan niệm là một phương tiện thiện xảo, chứ không phải bản thân của chân như

Phủ định những cái không phải là chân trong thế giới hiện là cách mô tả tốt nhất để giúp cho hành giả có thể nhận diện được mặt mũi thật của bản chất chân như trong lòng thực tại

Chân như đó không thuộc về hiện hữu (hữu), không thuộc về phi hiện hữu (phi hữu), không thuộc sự tổng hợp cả hai (hữu phi hữu câu) và không thuộc sự phủ định cả hai (phi hữu phi phi hữu). Chân như đó cũng không hạn cuộc trong các mô tả đồng nhất, dị biệt, vừa đồng nhất vừa dị biệt, hay chẳng phải không đồng nhất.

tính khẳng định một cách như thật: Hán dịch là “như thật bất không” (如實不空 - Lương dịch) hoặc “chân thật bất không” (真實不空 - Đường dịch). Đây là phương thức trình bày bản chất chân như bằng tính phủ-phủ định để nhằm khẳng định mặt mủi thật của chân như. Đó là tính chất “không thực thể” (không) như là bản thể của mọi sự vật hiện tượng. Chân như trong trường hợp này chính là chân tâm thường trú, tồn tại vĩnh hằng trong thế giới sinh diệt vốn có nhiều biến thiên, tuỳ thuộc vào điều kiện. Chân tâm thường trú này chứa đựng tất cả các hạt giống tích cực, thuần thiện và thanh tịnh. Cũng nên lưu ý rằng mặc dù vận dụng cách biểu đạt phủ phủ định để khẳng định chân nhưchân tâm nhưng phải ngầm hiểu tính chất khẳng định bằng phủ phủ định đó không phải là một thuộc tính, không có các tướng trạng gì để bám víu, vì bản chất của nó vốn không bị hạn cuộc trong thế giới sinh diệt của hiện tượng. Trạng tháicảnh giới này chỉ có những người thực chứng mới cảm nhận được hết.

từ trong bản chất: Hán gọi là “tùng bản dĩ lai” (從本已來). Tức cách thức nhận địnhđánh giá sự vật và vấn đề dựa trên phương diện bản thể của sự vật và vấn đề đó, chứ không căn cứ vào các biểu hiện đa dạng và sai biệt của thế giới hiện tượng. Tiếp cận sự vật từ trong bản chất sẽ giúp cho người quan sát hiểu được một cách toàn diện về một sự vật, theo đó, vượt thoát các cái nhìn thiển cận, phiến diện, và nhờ đó, tránh được các sai lầm nghiêm trọng trong ứng dụng sự vật.

không tương ưng (Hán: 不相應): Tình trạng không ăn khớp, không tương thích, không thống nhất giữa hình thức biểu đạt và nội dung được biểu đạt, hoặc tình trạng không thích ứng giữa sự biểu hiện sinh diệt trong thế giới hiện tượng của một sự vật với bản thể của nó trong thế giới chân như. Các biểu đạt không tương ứng đều thuộc về phi chân thật

tâm phân biệt (Hán: 分別心). Tâm nhận thức sự vật dưới góc độ của thế giới hiện tượng với sự thiên sai vạn biệt của mọi sự vật hiện tượng. Tâm phân biệt bao gồm các đánh giá, phán đoán, loại suy, quy nạp, tổng hợp trên cơ sở của nhị nguyênđối đãi. Tâm phân biệt chính là tâm phân tích sự vật một cách chủ quan, nên dễ tách rời bản chất của sự vật. Khởi Tín Luận gọi tâm phân biệt này là tâm phân biệt hư vọng (虛妄分別心) hoặc còn gọi là tâm niệm hư vọng (虛妄心念), ý nói thái độnhận thức phân biệt nhị nguyên trong thế giới hiện tượng đều rơi vào sự sai lầm

hữu (Hán: 有): 1) Một trong bốn mệnh đề của triết học nhị nguyên và là dữ liệu quan trọng của tâm phân biệt, đối đãi: a) Có hay tính khẳng định, đối lập với chữ vô, tức không có hay tính phủ định. b) Hiện hữu, đối lập với vô hữu tức không có hiện hữu. Hiện hữu theo đạo Phật là một thực thể vô ngã, hay một thực thể không có thực thể cố định, bất biến. 2) Trạng thái tồn tại của con người trong quy trình sinh tử 12 nhân duyên hay nhịp nối quan trong tình trạng một người vừa qua đời và sự tái sinh của người đó trong tương lai. Nơi nào có sự tồn tại sự sống nơi đó tiếp tục có sự tái sinh. 3) Cảnh giới hiện hữu hay tái sinh của các loài có tình thức. Ví dụ tam hữuba thế giới. Các học thuyếtquan niệm hữu sẽ có thể dẫn đến thường kiến, đánh đồng tính chất biến thiên của sự vật thành sự bất biến, cố định. 

vô (Hán: 無): 1) Một trong bốn mệnh đề của triết học nhị nguyên và là dữ liệu quan trọng của tâm phân biệt, đối đãi: a) không có hay tính phủ định, đối lập với chữ hữu, tức có hay tính khẳng định. b) không hiện hữu, đối lập với hữu tức có hiện hữu. 2) Sự không hiện hữu: Quan niệm về không hiện hữu theo đạo Phật là một học thuyết sai lầm khi cho rằng thực thể vô ngã của sự vật hiện tượng sẽ mất đi vĩnh viễn khi sự hiện hữu của nó đến kỳ kết thúc

hữu vô (Hán: 有無俱相): Một trong bốn mệnh đề quan trọng của triết học nhị nguyên, cho rằng vừa hiện hữu vừa không hiện hữu, hay vừa có vừa không có chính là thực thể của mọi sự vật hiện tượng. Học thuyết này phủ định 2 tình huống: a) đã là A thì không thể là B, b) Nếu không A thì buộc phải là B, và lập lên tình huống bao hàm có và không có trong cùng một sự vật. Theo Phật giáo, nếu quan niệm về hữu dẫn đến thường kiếnquan niệm vô dẫn đến đoạn kiến thì “vừa có vừa không” không phải là con đường trung dung mà là con đường nhị nguyên tổng hợp. Đây là cách khẳng định bằng cách gộp các đối lập vào nhau. 

phi hữu phi vô (Hán: 非有無俱 hay 非有非無): Một trong bốn mệnh đề quan trọng của triết học nhị nguyên, cho rằng chẳng phải hiện hữu và chẳng phải không hiện hữu, chính là thực thể của mọi sự vật hiện tượng. Học thuyết này đối lập với thuyết vừa có vừa không” và phủ định luôn cái có và không có đơn lẽ. Đây là cách phủ định sự vật bằng cách phủ định đôi về tính có và không có của sự vật đó.

đồng nhất và dị biệt (Hán: 一異): Tính chất thống nhất trước sau và sai biệt trong thế giới hiện tượng. Quan niệm đồng nhất cho rằng sự vật không thay đổi hình thức và nội dung trong quá trình biến thiên của thời giankhông gian, nên dễ dẫn đến thường kiến. Quan niệm dị biệt ngược lại cho rằng không có tính tiếp nối trong một sự vật trong các thời điểm khác nhau, nên dễ rơi vào tình trạng chấp nhận đoạn kiến. Nhà Phật cho rằng mọi sự vật hiện tượng có mối quan hệ nhân quả tương thuộc. Do đó, một sự vật trong hai thời điểm của sự biến thiên và phát triển không thể là một, không phải là sai khác. Theo Khởi Tín Luận, chân như của sự vật vốn hạn cuộc trong đồng nhất, dị biệt, vừa đồng nhất vừa dị biệt và chẳng phải đồng nhất chẳng phải dị biệt, và lìa tất cả mọi mặc định áp đặt vào chúng.

[1] Lương: “phân tích” (分別).

[2] Lương: “như thật không” (如實空); Đường: “chân thật không” (真實空). 

[3] Lương = Đường: “viễn ly” (遠離).

[4] Lương: “hiển thật” (顯實): Đường: “hiển thật nghĩa” (顯實體).

[5] Toàn câu dựa vào bản Đường, hơn là bản Lương: “cứu cánh viễn ly bất thật chi tướng, hiển chân thật thể cố” (究竟遠離不實之相顯實體故).

[6] Lương: “như thật bất không” (如實不空); Đường: “chân thật bất không” (真實不空).

[7] Lương: “dĩ hữu tự thể cụ túc vô lậu tính công đức cố” (以有自體具足無漏性功德故). Đường: “bản tính cụ túc vô biên công đức hữu tự thể cố” (本性具足無邊功德有自體故).

[8] Lương ghi đơn giản là: “sở ngôn không giả” = cái gọi là không (所言空者); Bản Đường ghi rõ hơn: “chân thật không giả” (真實空者).

[9] Lương = Đường: “tùng bản dĩ lai” (從本已來).

[10] Lương: “không tương ưng” (不相應).

[11] Lương = Đường: “tùng bản dĩ lai nhất thiết nhiễm pháp bất tương ưng cố” (從本已來一切染法不相應故).

[12] Lương: “dĩ vô hư vọng tâm niệm cố” (以無虛妄心念故). Đường: “vô hữu hư vọng phân biệt tâm cố” (無有虛妄分別心故).

[13] Lương: “tổng thuyết” (); Đường: “lược thuyết” () đều có nghĩa là “nói bao quát.”

[14] Lương: “bất tương ứng” (不相應). Đường: “chân như là cái không thể tiếp xúc được” (所不能觸, sở bất năng xúc).

[15] Lương: “nhược ly vọng tâm thật vô khả không cố” (若離妄心實無可空故). Bản Đường dịch rõ nghĩa hơn: “dựa vào nguyên lý chân thật, vọng niệm vốn không có cho nên tính không cũng không luôn” (據實道理。妄念非有。空性亦空).

[16] Lương: “duy chứng tương ưng” (唯證相應) có nghĩa đen là “chỉ có tương thích với sự thực chứng” hay nói cách khác, chỉ có trong trạng thái chứng đắc con người thật sự mới cảm nhận được.” Đường dịch: “[đó là trạng thái lìa tâm phân biệt, và chính là cảnh giới chứng nghiệm của trí tuệ” (唯離念智之所證故). 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8317)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
(Xem: 7588)
Lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa?
(Xem: 8623)
Hai chữ “Sinh Tử” đã khiến cho biết bao nhiêu người bất kể trí ngu giàu nghèo từ xưa đến nay đều phải lưu ý tới và khổ tâm vì nó.
(Xem: 7166)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ”[1], tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp.
(Xem: 8441)
Đối với Phật giáo mỗi người làm chủ lấy vận mạng của chính mình. Mỗi chúng ta đều mang trong mình một tiềm năng ngang nhau...
(Xem: 7737)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta
(Xem: 7026)
Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tố là tathā và Agata hoặc tathā và gata.
(Xem: 8232)
TA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được.
(Xem: 9257)
Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta thường thấy câu thành ngữ “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”.
(Xem: 7954)
Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.
(Xem: 8439)
“Bạn có nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày nữa của đời mình chăng? Thật ra hôm nay không phải chỉ là ‘một ngày nữa’ thôi, mà nó là một ngày được riêng dâng tặng cho bạn.
(Xem: 8084)
Phật dạy chúng ta hãy đem chánh niệm vào tất cả những việc mình làm trong đời sống hằng ngày. Ngài không bỏ ra ngoài bất cứ một việc làm nhỏ nhặt nào hết...
(Xem: 9642)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 6800)
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình…
(Xem: 6836)
Đức Phậtlòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
(Xem: 7061)
Hộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật.
(Xem: 6693)
Tăng quan luận (僧官論) là một trong những bộ luận do ngài Thích Ngạn Tông (557-610)1 trước tác, nhằm thuyết minh và lý giải các chức vụ do chư Tăng đảm nhiệm (廣明僧職)
(Xem: 7221)
Chưa có tài liệu nào về niên đại của đức Phật lịch sử, vị sáng lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
(Xem: 6867)
Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụhiện thân của Ngài.
(Xem: 16288)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 7563)
Con đường Bồ tátcon đường lý tưởng nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa – không phải là pháp tu để thành thánh, thành tiên, mà là một lối sống ai cũng có thể ước mong thành tựu được.
(Xem: 6504)
Sau kiến đạo, các pháp hữu lậu không thuộc kiến sở đoạn (darśana-prahātavya). Tức các pháp hữu lậu còn lại, trừ kiến chấp ô nhiễm khởi lên do tà phân biệt.
(Xem: 6970)
Đa số người xưng là Phật tử mà không biết rõ đường lối tu hành, ai bày sao làm vậy, trở thành mê tín sai lầm, khiến người đời phê bình đạo Phật là huyền hoặc, là vô ích.
(Xem: 7294)
Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất.
(Xem: 6377)
Tánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó...
(Xem: 6745)
Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng.
(Xem: 5599)
Người Phật tử chân chính chớ nên dòm ngó lỗi người, chúng ta chỉ nên nhìn lại hành động của mình, xem đã làm được điều gì tốt đẹp hay chưa.
(Xem: 8929)
"Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác.
(Xem: 7416)
Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu mình chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác thì hãy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương tiếp dẫn hậu lai, trả ơn đức Phật".
(Xem: 22376)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 7800)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 6864)
Bài Pháp này nhắc nhở các bạn về một số điều Phật dạy, như một cách để sách tấn, khuyến khích các bạn chăm chỉ thực hành đúng theo lời Phật dạy.
(Xem: 15063)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 8646)
Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật.
(Xem: 13120)
Giáo lý Duyên khởi (Cái này sinh, nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt) là nguyên tắc chung giải thích về sự hình thành hay hủy diệt của các pháp.
(Xem: 19032)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 6023)
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo...
(Xem: 6264)
Ở đời cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi con người chúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm đến con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân.
(Xem: 7029)
Chân lý tương đối là những sự thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là...
(Xem: 7343)
Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi.
(Xem: 8402)
Nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật.
(Xem: 5688)
Người ta thường tìm đủ mọi cách để gán một nhãn hiệu nào đó lên các lời giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 5887)
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt.
(Xem: 5524)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi, nhiều nguyên nhânđiều kiện.
(Xem: 6516)
Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giả cố gắng thực hành theo "Pháp yếu tọa Thiền tu tập Chỉ Quán" này chắc chắn sẽ đạt được kết quả lớn lao.
(Xem: 5953)
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ,
(Xem: 7539)
Mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài mãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi.
(Xem: 5835)
Bốn dấu ấn tiếng Phạn gọi là caturlaksana, tiếng Pa-li là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 6762)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni.
(Xem: 6809)
Khi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật.
(Xem: 5746)
Phật Giáo là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết. Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau.
(Xem: 6245)
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu, quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh...
(Xem: 5541)
Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầmgiác ngộ
(Xem: 7177)
Ý niệm về nghiệp hữu lý trên nhiều phương diện, nhưng một số người đã hiểu lầm về nghiệp.
(Xem: 6114)
Khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác.
(Xem: 7949)
Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn.
(Xem: 6112)
Người có tuệ giác biết nhìn thẳng vào sự thậtchấp nhận sự thật ấy dù đau thương rồi nỗ lực chuyển hóa, thăng hoa.
(Xem: 7139)
Đạo Phậtđạo từ bi và hành động thiết thực của nó mang đến sự an vui, bình yên cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 6969)
Ai có thể hàng phục được mười tám giới: sáu căn, sáu trần, và sáu thức, khiến chúng đừng tạo phản thì người đó chính là Bồ Tát.
(Xem: 7023)
Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant