Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phụ Lục Của Phần B

24 Tháng Năm 201100:00(Xem: 4056)
Phụ Lục Của Phần B

Phụ lục của phần B:

B.1 Kinh hạt muối:

Phật nói:
Ví như này, hỡi các Tỳ Kheo có người bỏ một nhúm muối vào một chén nước nhỏ, này các Tỳ Kheo, các người nghĩ thế nào, nước trong chén nhỏ có vì nhúm muối nhỏ này mà trở thành mặn và không uống được hay không?

– Thưa có vậy, Bạch Thế Tôn!

– Vì cớ sao?

– Bạch Thế Tôn, vì nước trong chén quá ít, nhúm muối làm cho nó trở thành mặn, không uống được.

– Này các Tỳ Kheo, ví như có một người bỏ một nhúm muối như vậy vào sông Hằng, hỡi các Tỳ Kheo, các người nghĩ thế nào? Nước sông Hằng có vì nhúm muối đó mà trở thành không uống được hay không?

– Thưa không, Bạch Thế Tôn.

– Vì cớ sao?

– Bạch Thế Tôn vì lượng nước sông Hằng lớn, cho nên không bị mặn và vẫn có thể uống được.
Cũng vậy, này các Tỳ Kheo! Ở đây có người làm việc ác nhỏ mọn, khiến người ấy chịu khổ não. Lại này nữa các Tỳ Kheo, có người cũng làm một việc nhỏ như vậy, nhưng ngay trong đời sống hiện tại, cũng đền bù hết rồi, ngay một ít quả báo nhỏ cũng không còn lại ở đời sau, hà huốngquả báo lớn...
Như vậy, này các Tỳ Kheo! Có người không tu tập thân, không giữ giới luật, không tu tập tâm, không tu tập huệ, ít thiện, ít đức, hằng ngày sống khổ, người như thế, dù phạm một tội ác nhỏ cũng làm nó khổ sở vô cùng.
Như vậy, này các Tỳ Kheo! Lại như có người có tu tập thân, giữ gìn giới luật, có tu tập tâm, tu tập tuệ, làm nhiều điều thiện, sinh hoạt thoải mái, người ấy dù có phạm một tội ác nhỏ, thì ngay trong cuộc sống hiện tại, cũng đủ đền bù hết, dù một quả báo nhỏ cũng không phải chịu trong đời sống sau, huống hồ là quả báo lớn.
Này các Tỳ Kheo! Ví như có người vì bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng tiền mà phải vào tù. Lại có một người cũng bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, hay 100 đồng tiền nhưng không phải vào tù.
Này các Tỳ Kheo! Bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng tiền mà phải vào tù là ai đó?
Này các Tỳ Kheo! Người nào bần cùng, người đó không đủ sống, cho nên chỉ vì bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng tiền mà phải vào tù. 
Này các Tỳ Kheo! Bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng tiền mà không phải vào tù, là ai vậy? Này các Tỳ Kheo! Người giàu có, tiền của dư dật, thì dù bị phạt nửa đồng tiền, một đồng đến 100 đồng tiền (anh ta nộp phạt dễ dàng), cũng không phải vào tù. 

Như vậy, này các Tỳ Kheo, có một người phạm một chút ác nhỏ mà khỗ não. Lại nữa, này các Tỳ Kheo, có một người cũng phạm một chút ác nhỏ như vậy, nhưng trong cuộc sống hiện tại cũng đủ đền bù rồi, không còn chịu quả báođời sau, dù là nhỏ, chứ đừng nói gì một quả báo lớn.

(Tăng Nhứt A Hàm–bản Hán)
(Tham khảo thêm bản dịch từ Pàli trong Tăng Chi I, Kinh Pàli,
trang 284-290)
 

B.2 Hoặc duyên với nghiệp mà tạo ra sanh tử, sầu, bi khổ não

DUYÊN KHỞI
Từ Pàli là Pratiya-samutpada, từ Sanskrit là paticca-samuppada. Nghĩa là y duyên mà sanh khởi lên. Duyên là nhân duyên, cũng như hiện nay nói điều kiện. Theo đạo Phật, tất cả mọi hiện tượng, sự vật ở thế gian này sở dĩ tồn tại như vậy diễn biến như vậy là do có những điều kiện nhứt định.
Trong sách Phật, thường có những câu hay đoạn câu: mọi pháp đều nhơn duyên sanh, đều có tính duyên khởi, đều là y tha khởi; ý nói, mọi pháp (tức mọi sự vật, mọi hiện tượng và quá trình) trong thế gian này không thể tự mình tồn tại được mà dựa vào nhiều nhơn, nhiều duyên để tồn tại. Từ y tha nghĩa là dựa vào y vào nhân duyên.

Mọi sự vật ở thế gian này đều biến động vô thường, nhưng sự biến động vô thường ấy không phải là tự nhiên, hay ngẫu nhiên mà theo quy luật, tức là quy luật nhơn duyên sinh. Đó là một sự biến độngđiều kiện (nhơn duyên).

 Bậc Thánh giác ngộgiác ngộ về những điều kiện diễn biến của sự vật, hiện tượng và quá trình trên thế gian này. Bậc Thánh chỉ bày cho chúng ta thấy rõ những điều kiện ấy, để chúng ta có thể chủ động đối với chúng, chi phối chúng, thay vì để chúng chi phối ta, sai sử chúng ta.

Ý nghĩa cơ bản của duyên khởi:
Ý nghĩa cơ bản của duyên khởi ở trong câu:
“Cái này có cho nên cái kia có,
Cái nàysinh, cho nên cái kia sinh,
Cái này không có cho nên cái kia không có,
Cái này diệt cho nên cái kia diệt”.
Hay là trong câu:
“Các pháp do nhơn duyên sinh mà sinh, cũng do nhơn duyên diệt mà diệt”.
Thuyết duyên khởi có tầm quan trọng hàng đầu đối với Phật Pháp cho nên có đoạn kinh đồng nhứt thuyết duyên khởi với Phật Pháp:
“Thấy Phật Pháp tức là thấy duyên khởi, thấy duyên khởi tức là thấy Phật Pháp”.

Thuyết duyên khởi dù là Phật giáo nguyên thủy hay Phật giáo Đại thừa, Phật giáo Ấn Độ hay Phật Giáo Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, được xem như tư tưởng cơ bản của Phật giáo, là chủ thuyết khu biệt Phật giáo với các tín ngưỡng khác, hệ tư tưởng khác.

Thuyết duyên khởi nói chung và thuyết duyên khởi giá trị:
Quan hệ duyên khởi là quan hệ thời gian, không gian và quan hệ logic của mọi hiện tượng, sự vật trong thế giới, vũ trụ. Phật giáo, khi khảo sát những mối quan hệ đó, không ở ngoài mục đích tìm hiểu ý nghĩa cứu kính của nhơn sinh, nhằm trả lời câu hỏi: “Vì sao con người lại tồn tại trên thế gian này, vì sao con người phải già, bịnh và chết, chịu nhiều đau khổ? Khi nói thuyết duyên khởi giá trị là nói thuyết Duyên khởi nhằm tìm hiểu giá trị của nhân sanh, cũng gọi là thuyết Nội duyên khởi.

Còn thuyết Duyên khởi nói chung có tính chất bao trùm hơn, phổ quát hơn. Nó không những áp dụngcho vấn đề nhân sinh, mà cả cho toàn bộ hiện tượng, sự vật và quá trình xảy ra trên thế gian và trong vũ trụ này. Định đề cơ bản của nó, như đã nói trên là:
Cái này có thì cái kia có,
Cái này sinh thì cái kia sinh,
Cái này không có thì cái kia không có,
Cái này diệt thì cái kia diệt...
Tính phức tạp của thuyết duyên khởi (giá trị)
Quan hệ duyên khởi vô cùng phức tạp. Theo quan điểm Phật giáo, mỗi con người, ngay sau khi lọt lòng mẹ, đã là một tổng hòa của toàn bộ kinh nghiệm quá khứcon người đã trải qua trong nhiều cuộc sống trước. Những kinh nghiệm đó không có mất đi với thời gian, mà lưu lại dấu vết trong thức A lại gia của con người đó, từ đời này sang đời khác. Rồi sau khi lọt lòng mẹ, con người chịu sự tác động của gia đình, trường học, xã hội... Tất cả những kinh nghiệm tiếp xúc đó cũng không mất đi, mà vẫn tích lủy tiếp tục trong thức A lại gia của con người đó, tạo ra cái gọi là nhân cách của con người đó.

Con người sống trong một hoàn cảnh, một môi trường nhứt định, con người chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh, đồng thời cũng ảnh hưởng trở lại hoàn cảnh. Điều này đúng không những đối với mặt đạo đức, mà cả về các mặt như thức ăn, đồ uống, đồ mặc, nơi ở... Qua phân tích kinh tế, chúng ta thấy rất rõ, cuộc sống dù là rất bình thường của một cá nhân chỉ có thể tồn tạitiếp tục, với sự hỗ trợ của biết bao điều kiện, nào nguyên liệu, nhiên liệu, công lao động, vận tải, không những trong nước mà cả ngoài nước nữa. Để có một gói mì ăn liền, phải có nguyên liệu bột mì nhập, có cả một nhà máy kéo mì sợi, bột gia vị, giấy bao bì, phương tiện vận tải để chuyển những gói mì thành phẩm đến người tiêu thụ, thông qua một mạng lưới cửa hàng bán buôn, bán lẻ rải rác khắp cả nước, không kể chi phí quảng cáo và một loạt các chi phí khác có liên quan. Đó là nói chuyện một gói mì ăn buổi sáng, giá bán không tới một nghìn. Cuộc sống hàng ngày của chúng ta còn cần bao nhiêu thứ khác còn phức tạp hơn.

 Trong lãnh vực văn hóa giáo dục, các mối quan hệ chằng chịt, đan chen lại càng phức tạp hơn: quan hệ truyền thống văn hóa quá khứ ở trong nước và quốc tế, quan hệ với các ngành giáo dục, in ấn, tuyên truyền, xuất bản...

 Có thể nói sự tồn tại và phát triển của bản thân chúng taliên quan mật thiếtphức tạp với quá khứ , với xã hộithế giới. Đó chính là chủ thuyết pháp giới trùng trùng duyên khởi của Tôn Hoa Nghiêm nổi tiếng. Nó cụ thể hóa quan điểm Phật giáo: “Một là tất cả, tất cả là một” (nhứt túc nhứt thiết, nhứt thiết tức nhứt).

Biểu minh họa thuyết duyên khởi nói chung và thuyết duyên khởi giá trị
Thuyết duyên khởi nói chung:
Cái này sinh thì cái kia sinh: quan hệ thời gian
Cái này diệt thì cái kia diệt (các hạnh vô thường)
Cái này có thì cái kia có: quan hệ không gian logic
Cái này không có thì cái kia không có

Thuyết duyên khởi giá trị: Cũng gọi là nội duyên khởi.
(12 nhơn duyên và bốn đế)
Duyên vô minh, có hành (khổ quả)
Duyên hành có thức lưu chuyển (tất cả các hành là khổ (nhân) tập)
Duyên sanh có già chết... với tất cả mọi khổ não kèm theo.
Vô minh diệt cho nên hành diệt
Hành diệt nên thức diệt (Diệt (quả) Niết bàn vắng lặng)
Sanh bị diệt cho nên già chết cũng diệt: (Đạo (nhân))

Qua biểu trên, thấy: Vế “cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt”... nói lên quan hệ thời gian trước sau. Còn, vế : “cái này có thì cái kia có, cái này khỏng có thì cái kia không có", nói lên quan hệ không gian và quan hệ logic. 

“Các hành đều là khổ” nói lên mặt trái của giá trị, mặt mê vọng luân hồi. “Niết bàn vắng lặng”, nói lên mặt phải, mặt chính diện của giá trị, mặt giác ngộan lạc

Các câu duyên vô minh có hành, duyên hành có thức... duyên sanh, có già chết... đó là chuỗi duyên khởi của mê vọng luân hồi

Các câu vô minh diệt cho nên hành diệt, hành diệt cho nên thức diệt... là chuỗi duyên khởi của giác ngộgiải thoát

Trong bốn đế thì hai đế khổ và tập là quan hệ nhơn quả dẫn tới lưu chuyển trong vòng mê vọng luân hồi. Hai đế diệt và đạo là quan hệ nhơn quả dẫn tới giác ngộgiải thoát. Do dó, bốn đế eũng thuộc phạm vi thuyết duyên khởi: lưu chuyển duyên khởigiải thoát duyên khởi

Thuyết 12 nhơn duyên
Trong kinh Nguyên thủy thuộc văn hệ Pàli, có đoạn văn giới thiệu 12 nhơn duyên như sau : “Này các tỷ kheo! Thế nào là duyên khởi ? Này các tỷ kheo! Duyên vô minh mà có hành, duyên hành mà có thức, duyên thức mà có danh sắc, duyên danh sảc mà có sáu xứ, duyên sáu xứ mà có xác, duyên xúc mà có thọ, duyên thọ mà có ai, duyên ái mà có thủ, duyên thủ mà có hữu, duyên hữu mà có sinh, duyên sinh mà có già chết, sầu bi khổ não sinh ra. Như vậy, là duyên khởi của tất cả mọi đau khổ
Ngược lại, vô minh diệt cho nên hành diệt, hành diệt cho nên thức diệt, thức diệt cho nên danh sắc diệt... sáu xứ... xác... thọ.. ái... thủ... hữu... Hữu diệt nên sinh diệt sinh diệt nên già chết, và mọi sầu bi khổ não đều diệt. Như vậy, tất cả mọi đau khổ đều diệt.” 

Trong 12 chi nhơn duyên, hai chi đầu vô minh và hành thuộc về nhân của thời quá khứ, năm chi thức danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ, là năm quả thuộc thời hiện đại. Đó là lớp nhơn quả quá khứhiện tại (hai nhơn quả quá khứ và năm quả hiện tại). 

Ái, thủ, hữu là ba nhân thuộc thời hiện tại. Sinh và già chết là hai quả thuộc thời vị lai. Đó là một lớp nhân quả nữa : ba nhân hiện tai và hai quả vị lai. Đó là lớp nhân quả thứ hai hiện tạivị lai

Biểu sau đây minh họa hai lớp nhân quả quá khứ hiện tạihiện tại vị lai như sau : 

Mười hai duyên khởi 
Vô minh tức là hoặc 
hai nhân thời quá khứ 
Hành tức là nghiệp 
Thức, danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ.... năm quả thời hiện tại

Trên đây là lớp nhân quả quá khứ hiện tại
Ái thủ, hữu... Ba nhân thời hiện tại
Sinh, già, chết... hai quả thời vị lai
Là lớp nhân quả thứ hai : nhơn hiện tại quả vị lai. 

Cho nên gọi thuyết 12 nhơn duyên gồm hai lớp nhơn quả, thuộc ba đời. Trong biểu, 
1) Vô minh tức là phiền não thuộc đời trước; 
2) Hành là các nghiệp thiện ác tạo ra trong thời quá khứ.
3) Thức: Là dạng đầu tiên nhứt (sát na dầu tiên) của thân năm uẩn trong thai mẹ. 
4) Danh sắc: là tổ hợp thân tâm bắt đầu hình thành trong thai mẹ, trong bốn tuần dầu tiên. 
5) Sáu xứ (cũng gọi là lục nhập) là sáu căn năng. Đến tuần thứ năm thì bào thai đã có sáu căn đầy đủ.
6) Xúc : thai nhi lọt lòng mẹ, bắt đầu tiếp xúc với ngoại cảnh
7) Thọ : là cảm xúc, vui, không vui... 
8) Ái : thích thú đồ vật hoặc người thuộc giới tính khác. 
9) Thủ : là vơ lấy nắm lấy làm của mình. 
10) Hữu : cũng gỉống nghĩa chữ Hành, tứe là tạo ra các nghiệp thiện hay ác, dẫn tới quả vị lai. 
11) và 12) Sinh và Già chết : do tạo nghiệp ở đời trước mà sinh ra ở đời này, với cái thân sẽ già, bịnh, chết với mọi khổ não kèm theo. 
 

Quan niệm của phái Du Già tức học phái Duy Thức
Phái Du Già xem 10 chi từ vô minh cho đến hữu là thuộc đời hiện tại. Hai chi sau, sinh và già chết là thuộc đời vị lai. Đó là thuyết một lớp nhân quả trải qua hai đời. 

Quan niệm của Hữu bộ
Phái Hữu bộ (sarvastivada) quan sát lý 12 nhơn duyên theo 4 loại duyên khởi
1/ Sát na duyên khởi : tức trong một sát na (đơn vị thời gian ngắn nhứt có thể tưởng tượng được) cả 12 chi nhơn duyên cùng tồn tạỉ một cách logic.
2/ Liên phược duyên khởi : khi quan sát 12 nhơn duyên được thể hiện cụ thể trong thân tâm con người, hàng giờ phút biến đổi, và cả hoạt động bình thường của con người hằng ngày cũng dựa vào 12 nhơn duyên đó. 
3/ Phân vị duyên khởi: tức là 12 nhơn duyên chia thành hai lớp nhơn quả trong ba đời quá khứ, hiện tạivị lai
4/ Viên tục duyên khởi : viễn tức là tiếp tục mãi, cho tới khi con người chứng được Niết bàn. Chuỗi 12 nhơn duyên này nối tiếp mãi không ngừng đời này sang đời khác cho tới khi đương sự chứng Niết bàn, không còn luân hồi sanh tử nữa. 

Giải thích các chi trong 12 nhơn duyên, theo kinh Nikàya Pàli và A Hàm
1/ Vô minh : S.Avidya P.Avijja, tức là không biết, không hiểu đối với nhân sinh quan và thế giới quan đúng đắn, đối với thuyết bốn đế. Trái với vô minh là mục chánh kiến trong Bát chánh đạo

2/ Hành: S.samskara P.sankhara, tức ba hành nghiệp ý, lời nói, thân. Do vô minh mà có hành động tạo nghiệp thiện, ác nơi ý nghĩ, lời nói và thân. Những nghiệp thiện ác này đều lưu lại dấu vết trong con người dưới dạng hạt giống, hình thành nhân cách, tập quán của con người đó. 

3/ Thức: S.vijinana, P.Vinnana, thức là tâm thức phân biệt. Kinh A Hàm khi nói về “duyên thức mà có danh sắc”, phân biệt có: 1. Thức nhập thai; 2. Thức trong bào thai; 3. Thức sau khi lọt thai. Thức nhập thai kinh Pàli gọi là : Kiết sanh thứe. 

4/ Danh sắc: S. và P. manarupa, danh là các hành tướng của tâm như thọ, tưỏng, hành... sắc chỉ sắc thân. Cũng có sách giải thích sắc là năm ngoại trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Nhưng có thể giải thích sắc là sắc thân thì đúng lý hơn. 

5/ Sáu xứ: S. sad-ayatana P.salayatana, cũng gọi theo chữ Hán là lục nhập hay lục nhập xứ: Tức là sáu căn năng, qua đó, thân tâm tiếp xúc với ngoại cảnh

6/ Xúc: S.aparsa P.phassa, tức là sự tiếp xúc của ba yếu tố căn, cảnh, và thức. 

7/ Thọ: S. và P.vedana, tức là cảm thọ vui, buồn hay không vui, không buồn. 

8/ Ái: S.trsna P.tanha, tức là sự thèm khát, cũng như khát thèm nước vậy. Như thấy cảnh vui, thì thèm muốn, gặp cảnh nghịch thì xa tránh. 

9/ Thủ: S. và P. upadana, sau khi trong tâm khởi lên lòng thèm khát, thì ở nơi ý, lời nói và thân, cũng khởi lên hành vi cụ thể bám lấy, vơ lấy, và đó chính là tạo nghiệp. 

Có thể phân biệt có: 
- Dục thủ: là thèm muốn, bám vào năm đối tượng của dục vọng như sắc đẹp, của cải, danh vọng, ăn, ngủ. 
- Kiến thủ: tức là bám lấy kiến giải mà mình vốn thích thú, dù là kiến giải sai. 
- Giới cấm thủ: Tức là bám vào những giới diều vô lý, sai trái, như một số ngoại đạo cho rằng tắm nước sông Hằng thì được xóa sạch mọi tội lỗi, sống ép xác khổ hạnh cũng xóa bỏ được mọi tội lỗi quá khứ

10/ Hữu: S. và P.bhava, tức là sự tồn tại. Vì tạo nghiệp trong quá khứ cho nên con người mới tồn tại, mới có thân năm uẩn, trong các cõi sống khác nhau. Nếu ở cõi Dục giới thì gọi là Dục hữu. Nếu là ở cõi Sắc giới thì gọi là Sắc Hữu, và nếu ở cõi Vô sắc thì gọi là Vô Sắc hữu
11/ Sinh: S. và P. Jati, tức là loài hữu tình, do nghiệp tạo ra trong quá khứ mà sanh trong các cõi sống khác nhau, thành các loại chúng sinh khác nhau. 

12/ Già chết: S. và P.Jara-marana. Trong kinh nguyên thủy, sau già, chết còn thêm sầu P.soka, bi P. parideva, Khổ P.dukkha, não P.upayasa, ưu P.domanassa. 
 
 

B.3 CÁC ĐOẠN TRÍCH DẪN KINH ĐIỂN VỀ BỐN ĐẾ
(liên hệ tới chân lý về sự khổ)

Khi Phật sắp nhập Niết bàn, Phật đã nhắc lại thuyết bốn đế: 
“Này các Tỷ Kheo, đối với thuyết bốn đế, có điều gì nghi hoặc thì mau mau hỏi đi, đừng để còn nghi hoặc mà không gạn hỏi... Lúc bấy giờ Thế Tôn hỏi lại ba lần mà không ai nói cả. Vì sao như vậy? Là vì trong Tăng chúng không còn ai nghi hoặc về thuyết bốn đề nữa. Khi ấy, Tôn giả A nâu Lâu Đà (Anurrudha), quan sát tâm tư trong chúng, thấy như vậy bèn bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, mặt trăng có thể nóng lên, mặt trời có thể lạnh đi, còn Thế Tôn giảng bốn Chân lý thì không bao giờ đổi khác được, Thế Tôn nói chơn lý về sự khổ thì thực là khổ, khổ không thể biến thành vui được. Tập đế là nhân của khổ, không thể có nhân khác. Nếu khổ diệt tức là nhân diệt. Nhân diệt cho nên quả diệt. Đạo diệt khổđạo chân chính. Không còn có đạo khác. Bạch Thế Tôn, trong Tăng chúng, tâm tư đối với bốn đế đã quyết định, không còn nghi hoặc điều gì nữa.” 
(Kinh Di giáo bản dịch của Cưu Ma La Thập

Trích kinh Hỏa Dụ: 
(Phật nói mọi sự vật trong thế gian đều như bốc lửa). 

“Thời bấy giờ, đức Thế Tôn sau khi ở lại Uruvela một thời gian đủ thỏa thích bèn lên dường đi Gaya (Già da). Đi theo Phật, có một nghìn Tỷ Kheo, trước đây vốn là du sĩ ngoại đạo bện tóc, theo Kỳ Na giáo. Sau khi đến Tinh Xá Tượng Đầu (Gaya head), Phật nói với đại chúng Tỷ Kheo rằng: Này các Tỷ Kheo! Tất cả trong thế gian đều đang bốc cháy! Này các Tỷ Kheo, con mắt đang bốc cháy, nhãn thức đang bốc cháy, sắc cảnhnhãn thức nắm bắt đang bốc cháy, tất cả mọi cảm thọ do thấy sắc khởi lên, dù vui hay buồn, hay không vui không buồn, đều đang bốc cháy. Chúng bốc cháy như thế nào? Chúng bốc cháy do lửa tham, lửa sân, lửa si và cùng với sanh, già, bịnh, chết, ưu, bi, khổ, não, đồng thời bốc cháy... 

(Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, Phật cũng phân tích như vậy và Phật tiếp lời)... 

Và vị đệ tửchánh kiến như vậy, bèn sanh tâm nhàm chán đối với mắt, sắc pháp, nhãn thức, mọi cảm thọ sanh ra từ nhãn thức, sanh tâm nhàm chán đối với tai, âm thanh, nhĩ thức, với mũi, mùi vị, tị thức... nhờ nhàm chán mà vị đệ tử đoạn trừ được tham dục, đạt được tự dogiải thoát...”

Trích kinh Lăng Nghiêm
Một đoạn trong kinh Lăng Nghiêm, dẫn lời của vua Ba Tư Nặc (Pasenadi): 
“Bạch Thế Tôn, con xưa còn nhỏ, da dẻ mượt mà, lúc lớn lên huyết khí sung mãn, mà nay đã già trở thành suy yếu, thân hình khô héo tiều tụy, tinh thần u ám, tóc bạc da nhăn, chắc là... không còn thọ được bao lâu nữa. Làm sao có thể so sánh dược với thời trai tráng? Sự thay đổi là dần dần, thực ra con không thể nào cảm giác được, mùa qua tháng lại, dẫn tới tình trạng ngày nay. Cớ vì sao? Năm con hai mươi tuổi, tuy gọi là còn nhỏ, nhưng dung nhan đã có già đi so với hồi 10 tuổi, đến năm 30 tuổi lại già đi so với tuổi 20. Năm nay, con sáu mươi tuổi, nếu ngó lại cách đây 10 năm thì lúc đó con còn cường tráng. Bạch Thế Tôn, con thấy sự thay đổi không chỉ hạn chế trong 10 năm. Nếu suy nghĩ kỹ, thì sự thay đổi không phải hạn chế trong một kỷ hay hai kỷ, mà sự thay đổi đó diễn ra hàng năm, mà không phải từng năm mà từng tháng đã có thay đổi. Mà không phải từng tháng có thay đổi, mà là từng ngày. Thậm chí nếu xét kỹ, thì sự thay đổi đó chưa từng nghỉ dừng, dù là trong từng sát na, trong từng niệm. Vì vậy con biết thân của con, cuối cùng sẽ phải biến diệt !...” 

Trích Kinh Niết Bàn
Kinh Niết Bàn có đoạn nói lên đặc điểm của nhân sanh, vui và buồn, lạc và khổ đi kèm với nhau như bóng với hình: 
“Có hai chị em, người chị cực kỳ xinh đẹp, dễ thương, đi dến đâu cũng đem lại sự phát đạt, phồn vinh giàu có, và được mọi người hoan nghinh, tiếp đón, giữ lại không cho đi nơi khác. Nhưng người em, thì trái lại cực kỳ xấu xí, đi đến đâu cũng gieo rắc tai họa, sự phá sảntử vong, cho nên mọi người đều ghét bỏ, cự tuyệt không cho đến. Nhưng người chị nói : “Tôi và em tôi, đi đâu cùng đi với nhau, không bao giờ rời xa nhau”..... 
Ở đâu tôi cũng làm diều lành, em tôi thì làm điều ác, tôi đem lại niềm vui, em tôi thì gây đau khổ. Mọi người nếu yêu tôi, thì cũng phải đừng ghét em tôi.... 

Nhân sinh là như vậy. Có vui có buồn, có sướng có khổ, có vinh có nhục. Cho nên, Phật dạy rằng, trong thế gian này, con người không thể hưởng được niềm vui thường tại, không thể có tự ngã biệt lập không thể có dung sắc đẹp mãi mãi không bị tàn phai. Vì chúng sinh si mê cho nên lấy buồn làm vui, lấy cái vô ngã làm ngã, lấy vô thường làm thường, lấy cái không thanh tịnh làm thanh tịnh, Phật gọi đó là thấy điên đảo.” 

Có lần, Phật dạy các đệ tử
“Này các Tỷ Kheo! Các người hãy nghĩ xem, nước trong bốn biển là nhiều, hay là từ vô thỉ đến nay, lăn lộn mãi trong vòng sanh tử, nước mắt của các người đổ xuống trong ngày tháng đêm dài là nhiều? Này các Tỷ Kheo! Các người trong một thời gian dài, đã biết bao lần, các người chịu đựng nỗi thống khổ mất cha, mất mẹ, đã bao lần các người chịu nỗi thống khổ mất con, mất anh em, mất chị em. Đã biết bao lần, chịu nỗi thống khổ mất tài sản, nỗi thống khổ bịnh tật triền miên. Biết bao lần, các người phải chịu nỗi thống khổ xa người mình yêu, gần người mình ghét. Đúng như vậy một điểm cũng không sai, đã bao nhiêu lần, các người đã chịu những nổi thống khổ như vậy mà phải khóc và chảy nước mắt. Lượng nước mắt đổ ra thực là nhiều hơn nước của bốn biển cộng lại. Này các Tỷ Kheo trong một thời gian dài, các người đã chịu đựng những nỗi thống khổ, sầu bi, khổ não, như vậy, chịu đựng bao nhiêu bất hạnh, bao nhiêu đã kích, bao nhiêu dày vò... thây xác, xương cốt các người lấp đầy mồ mả. Các người chịu khổ như vậy đã đủ lắm rồi. Đã đến lúc, các người nhàm chán thế gian này, đã đến lúc các người phải nổ lực thoát khỏi nỗi khổ của sanh tử.... 
 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22954)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22474)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21763)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23323)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21188)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21766)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22227)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20053)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21947)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24745)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18986)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30972)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23984)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27762)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26510)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38126)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18435)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19956)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19041)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23147)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18709)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15846)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18853)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19658)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20150)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19951)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16418)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16917)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26063)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18849)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24055)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29120)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22900)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30949)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21006)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26264)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23320)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19848)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28959)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20688)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19423)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30487)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36423)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33226)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35559)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20969)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21914)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25259)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25795)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant