Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nếu Cõi Đời Không Đau Khổ Tối Tăm Ta Không Xuất Hiện Ở Trần Gian

25 Tháng Năm 201100:00(Xem: 3997)
Nếu Cõi Đời Không Đau Khổ Tối Tăm Ta Không Xuất Hiện Ở Trần Gian

"NẾU CÕI ĐỜI KHÔNG ĐAU KHỔ TỐI TĂM
TA KHÔNG XUẤT HIỆN Ở TRẦN GIAN " 
-- SAKYA MUNI

Cuộc sống nhân loại càng ngày càng trở nên phức tạp và hổn hợp. Vì mãi đấu tranh cho cuộc sống, cho dục vọng tham, sân, si đã dẫn dắt con người đi sâu vào con đường của đau khổ, sa đọa. Do bởi không nhận chân được thực tướng vô thường của thế gian, rõ biết sự giả hợp nơi bản thân, sự sinh diệt của vũ trụ nên mãi mê tham đắm khổ cầu chạy theo thị dục, thị hiếu của xã hội để rồi phải sa lầy vào đám bùn nhơ tham vọng. Càng đấu tranh khuấy động bao nhiêu thì bùn lầy tội lỗi sẽ nhận chìm con người lún xuống bấy nhiêu. Như vậy đã sa vào vũng bùn tham dục, còn khuấy động thêm nữa thì hậu quả càng trầm trọng khó có thể trở lên nơi khô ráo một cách dễ dàng được.

Từ chỗ sạch sẽ đi vào con đường bùn lầy. Ví như bệnh đã bộc phát nơi thân thì phải có phương pháp, thuốc men chữa trị... Vậy muốn lìa khổ được vui chúng ta phải theo sự chỉ dẫn của những vị hướng đạo. Đại biểuđức Phật. Vì ngài là người đã chứng nghiệm bằng chính bản thânđạt đến kết quả giải thoát, xứng đáng làm mô phạm cho cả trời người noi theo học tập. Chính các đệ tử của Phật đã hành trì theo lời dạy và thâu hoạch được rất nhiều lợi ích trong cuộc sống. Lịch sử ra đời của đạo Phật đã chứng minh điều đó, không phải chuyện hảo huyền vô căn cứ. Mỗi người trong chúng ta ai có thực hành mới thấy được giá trị đích thực cao siêu tuyệt vời của nó. Ví như người uống nước nóng lạnh tự mình biết được. Như người thưởng thức những món cao lương mỹ vị mới có thể cảm nhận cái ngon lành thơm quý của các món ấy mà thôi. Nếu chỉ nghe và biết, chưa hoặc không trực tiếp hưởng thụ thì chẳng bao giờ được lợi ích thiết thực.

Giáo pháp đức Phật có muôn ngàn phương tiện. Thế nên tùy theo căn cơ trình độ chúng sinh thích hợpthực hành. Điều này đòi hỏi con người phải có một trí tuệ sáng suốt để nhận định, chọn đúng hướng đi cho mình, khỏi nhọc lòng mà kết quả lại khả quan. Nhưng cho dù pháp môn nào đi nữa cũng không ngoài mục đích hướng dẫn chúng sinh lìa khổ đạt vui, giũ sạch phiền não tham sân, si đạt đến chỗ thanh tịnh giải thoát. Đức Phật dạy: "Cũng như nước trong tất cả biển duy chỉ có một hương vị, hương vị của mặn. Trong tất cả giáo pháp của Như Lai chỉ có một hương vị, hương vị của giải thoát". Đường đến thành La Mã có rất nhiều, hoặc gần hay xa, mau hay chậm, nhưng mục đích của kẻ lữ hành chỉ có một. Tuy nhiên, nếu biết nhầm đường mà không trở lại, có bệnh mà không chịu kiêng cử, uống thuốc, lỗi ấy không phải tại người hướng đạo không chỉ dẫn cặn kẽ, thầy thuốc không căn dặn rõ ràng, mà chính do ta không chịu hồi đầu đi theo con đường bằng phẳng, chẳng chịu uống thuốc, chắc chắn không bao giờ ta đến nơi đất sạch hoặc hết bệnh cho được. Chẳng phải đường khó mà do lòng ta ngại khó, chẳng phải tại thuốc không công hiệu mà tại ta sợ đắng. Phải đi, dù cho đi chậm vẫn còn hơn không. Phải uống, dù cho chưa hết bệnh ngay, nhưng thuốc sẽ thấm dần vào cơ thể. Kiên trì nhẫn nại tiến bước thì dù xa đến đâu, khó khăn cách mấy cũng sẽ vượt qua và tới đích. Trái lại, nếu một bước tới hai bước lùi thì dù cho lâu đài hạnh phúchiển hiện trước mắt vẫn xa ta muôn trùng chẳng làm sao tới được. Thanh Sĩ có câu:

Cố đi mãi đường dài hóa ngắn
Còn nghỉ luôn lộ cận hóa xa.

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy: "Nhân thị tối thắng, năng sinh nhất thiết chư pháp thiện cố". Nghĩa là: con người là hơn cả, vì con người có khả năng thể hiện hết thảy mọi sự cao đẹp. Thật vậy, nhìn hạn hẹp vào một thế giới ta đang sống, con người là một động vật như bao loài động vật khác. Cũng tham sống sợ chết, cũng đau khổ buồn vui, cũng thỏa mãn dục tính... Nhưng do lý trí và khả năng sáng tạo, con người đã vượt lên trên mọi động vật khác, thay đổi và biến chuyển cuộc đời từ lạc hậu thô sơ đến tiến bộ thẩm mỹ. Xét về mặt rộng, theo kinh Phật dạy, con người là một thú trong lục đạo luân hồi. Tuy cõi Ta bà mà ta hiện sống là tạp sinh và khổ vui lẫn lộn, không như các cõi khác có sự phân định rõ rệt. Nhưng nhờ ở điểm này mà con người có ưu thắng và dễ ý thức về tính cách vô thường của thế gian để cầu tiến.

Dưới tuệ nhãn của Phật: "Trong tất cả các loài con người có đủ điều kiện hơn, như về trí khôn ngoan chẳng hạn. Nhất là hoàn cảnh con người không quá khổ như địa ngục, không quá vui như thiên đàng và không ngu si như thú vật". (Kinh Ưu Bà Tắc). Xét về lục đạo luân hồi, ta có thể phân chia cõi Trời biểu tượng của vui và địa ngục biểu tượng của đau khổ đọa đày. Đối với cảnh giới cao đẹp, chúng sinhcõi Trời toàn hưởng những phước báo, thân hình tốt xinh, tướng hảo uy nghi, khí hậu thanh khiết, cảnh trí trang nghiêm tuyệt mỹ cuộc sống đầy đủ tiện nghi sung sướng, những thứ khổ não lo sầu không thể xâm nhập len lõi vào thế giới ấy được. Từ nguyên nhân hoàn hão này khiến họ trở nên giải đải, chỉ biết hưởng thụ mà không tiến tu hầu tăng trưởng thiện pháp. Khi đã hết phước báo đã gieo trồng trong quá khứ, rồi tùy theo nghiệp lực có thể sa đoạ trở xuống cảnh giới thấp hơn thậm chí còn rơi vào khổ cảnh. Đó là luật tiến hóađào thải của vũ trụ nhân quả. Ví như chiếc thuyền trên dòng nước ngược nếu không tiến ắt phải bị lùi. Tương phản với cõi Trờiđịa ngục. Những chúng sinh đọa đày nơi khổ cảnh này hoàn toàn không có một chút vui sướng, luôn luôn sống trong những lo âu sợ sệt, chịu bao cực hình đau khổ, chung quanh họ toàn là cảnh tượng hãi hùng diễn biến. Do quả nghiệp này, họ khó có thể phát khởi thiện tâm, gieo nhân giải thoát cho được. Duy chỉ có con ngườitrọng tâm giữa các sự khổ và vui, là nấc thang thăng hoa từ phàm phu đến quả vị thánh hiền, là chủ thể của vạn hữu. Do vậy con người được tôn xưng là tối linh hơn cả: "Nhân linh ư vạn vật". Con người có khả năng tự định đoạt vận mạng tương lai của mình. Con người dễ đạt đến quả vị Chánh đẳng chánh giác.

Trong Kinh Pháp Cú, Phật dạy: "Làm dữ bởi ta mà ô nhiễm cũng bởi ta. Làm lành bởi ta mà thanh tịnh cũng bởi ta. Tịnh hay bất tịnh cũng bởi ta, chứ không ai có thể làm cho ta thanh tịnh được". Vậy chính ta làm cho ta trong sạch và cũng chính ta làm cho ta ô nhiễm. Hạnh phúc hay đau khổ do chính con người tạo ra, không ai có quyền ban phước giáng họa hoặc thưởng phạt ai cả. Chỉ có nhân quả nghiệp báo là quan tòa công lý vận hành quyết định số phận của mỗi chúng sinh mà thôi. Ví như một người được gọi là bác sĩ. Có phải do tự nhiên mà được không? Hoặc Thượng đế hay vị thần nào đó "cảm tình riêng" vì lỡ nhận chút ít quà cáp biếu xén nên đã tặng cho ông danh hiệu ấy chăng? Không, chính thực tế nhân quả đã tạo thành danh phận ấy. Với một quá trình lâu dài tu học chuyên cần, tốn bao công sức tài của, trong đó ý chísức mạnh vô biên thúc đẩy để người ta trở nên những tài năng hữu ích. Do lẽ đó mỗi con người chúng ta phải tự tạo cho mình một lý tưởng để từ đó mà thăng tiến, xây dựng một tương lai huy hoàng sáng lạn.

Muốn qua sông phải nhờ thuyền, nhưng có thuyền cũng chưa đủ cần phải chèo chống nó đi. Muốn trở thành con người hoàn thiện hưởng sự an vui giải thoát, chúng ta không chỉ có phương pháp hướng dẫn sẵn sàng, mục đích rõ rệt mà điều quan trọng nhất là phải thực hành cho đúng và cho được. Cái khó là ở chỗ này. Thế nên sau khi tiếp thu và hiểu thấu lời Phật dạy, chúng ta nên từng bước từng bước chậm rãi mà đi. Như người leo núi cao chẳng nên hấp tấp vội vã. Nếu không cẩn thận vô tình trợt chân té ngã sẽ khó lòng đi tiếp được. Chẳng may "bất đắc kỳ tử" thì coi như bao nhiêu công trình đều dở dang hết. Hãy nhớ câu "Dục tốc bất đạt". Hoặc cây chóng lên thì dễ bị gió thổi gẫy non. Thế nên, TU NHÀ là bước đầu căn bản cho người Phật tử tại gia làm bàn đạp tiến lên con đường giải thoát sau này. Vậy thế nào là TU NHÀ?

Nói đến chữ TU có lẽ - hầu như đa số - đều nghĩ ngay đến ông sư bà vãi nào đó ở chùa, giam mình trong cảnh hiu quạnh cô độc, quanh năm suốt tháng chỉ tương dưa, rau quả khổ hạnh, suốt đời áo vải nâu sồng chẳng biết gì đến thế sự nhân tình... Nói chung họ gần như là người chôn vùi cuộc sống nơi cửa Thiền, "còn sống mà coi như đã chết". Do vậy nhiều người rất sợ tiếng TU. Khi xưa hễ ai nói với tôi về vấn đề tu hành là tôi gạt ngang phản đối lại liền. Bởi vì tôi rất "cữ" tiếng ấy. Điều này cũng dễ hiểu tại sao tôi lại cữ. Thú thật tôi rất sợ gò bó, không được tự do nhất là - xin độc giả chớ cười - không được đi xem xi nê! Lại thêm một tội mê coi đá banh, vì ít ra tôi đã có một thời là "cầu thủ tí hon". Nếu xét cho cùng thì chữ tu không phải tuyệt đối như thế, mà còn tùy theo mỗi trình độ tu hành của con người. Vậy TU là gì?

Chữ tu nói chung là sửa đổi. Nếu đi cùng với một từ nào đó nó sẽ cho ta được nhiều nghĩa. Chẳng hạn:

- Tu tâm: là sửa đổi tâm tánh từ tà vạy thành ngay thẳng, xấu ra tốt, dữ hóa hiền, ích kỷ thành độ lượng...
- Tu thân: là sửa mình cho đứng đắn, nghiêm trang, tề chỉnh. Hành động phải cẩn thận không nên vụt chạc...
- Tu bổ: sửa đổi cho được tốt đẹp, thêm thắt cho đầy đủ. Như tu bổ nhà cửa, kiều lộ, tịnh xá...
- Tu dưỡng: sửa các điều xấu và vun bồi nuôi dưỡng tăng trưởng các điều thiện.
- Tu hành: sửa đổithực hành theo một phương pháp nào đó để đưa con người đạt đến lý tưởng mà họ theo đuổi.

Nói tóm lại, chữ Tu có nghĩa là sửa đổibồi bổ. Sửa những điều sai trái, sai lầm, xấu ác, bồi bổ đức tính từ bi hỷ xả, tăng trưởng các thiện pháp tới chỗ chân thiện mỹ. Người tu ví như kẻ sửa đường, chỗ nào cao thì san xuống cho bằng, chỗ nào thấp trũng bồi đắp lên cho đầy. Thế nên ý nghĩa chữ tu này tùy theo trình độ mà có cao thấp khác nhau. Từ người xấu thành tốt, từ phàm phu đến thánh hiền, từ chúng sanh lên quả vị Phật.

Còn nhà là nơi tụ họp của một gia đình nhỏ hẹp trong đó có cha mẹ, con cái cùng nương náu để che mưa đở nắng, xây dựng cuộc sống gia đình ấm no hạnh phúc. Nhà là một phần tử hết sức quan trọng trong cộng đồng xã hội, là môi trường đạo đức rất tốt sản sinh ra những nhân tài sau này nối tiếp cha ông xây dựng đất nước, cường thịnh quốc gia. Một xã hội có thể ví như tòa nhà đồ sộ, mỗi gia đình là một viên ngói đan khít với nhau để che chở bảo vệ đồ vật trong nhà khỏi bị mưa nắng làm hư hoại. Nếu một tấm ngói - một gia đình - bị hư bể thì toàn bộ căn nhà cũng ảnh hưởng không ít. Do vậy, nói chung thì một gia đình hay gần hơn nữa là từng con người sẽ đóng một vai trò khá quan trọng trong việc xây dựngcải hóa thế giới Ta bà thành cõi Tịnh độ hiện tiền.

Tóm lại, TU NHÀ là nói về những điều cơ bản mà người Phật tử tu tập tại gia, trong phạm vi gia đình chưa vượt khỏi hạn chế bổn phận và trách nhiệm đối với cha mẹ, vợ chồng, con cái. Thế nên, hiểu rõ chữ Tu người Phật tử phải biết phận sự của mình ở địa vị nào hầu làm tròn. Đồng thời để tránh tình trạng có người vừa quy y Tam Bảo, hiểu chút ít giáo lý Phật về nhà lại tỏ ra lãnh đạm thờ ơ với công việc gia đình, chẳng thiết quan hệ với ai, nhắm mắt làm ngơ không thèm thấy nghe tin tức thế sự. Thậm chí đến việc giáo dục con cái cũng "phớt tỉnh Ăng lê" luôn. Sống chết tốt xấu mặc bay, ta cứ thản nhiên lim dim ngồi niệm Phật cầu sinh Tây phương Cực lạc. Hành động ấy ta lại vô tình gây thêm sự xáo trộn, bất hòa giữa cha mẹ và con cái, sai tinh thần giáo lý Phật dạy.

Tu đâu phải tách biệt mọi quan hệ với mọi người chung quanh. Chúng ta nên nhớ câu: "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Đời sống con người đâu phải lúc nào cũng bình thản lặng yên, đôi khi cũng có những biến cố tai họa xảy đến. Nếu thật sư hằng ngày ta chẳng thèm đếm xỉa đến ai, thì gia đình ta hữu sự lại có lẽ nào ta lại thản nhiên ngồi đón nhận những ân huệ kẻ khác ban cho, quả là tủi hổ và kỳ lắm đấy! Tu đâu phải nhắm mắt bịt tai. Nếu có chăng là đừng nhìn bậy, đừng nghe lời xàm quấy. Còn tất cả sinh hoạt tin tức xã hội rất cần thiết cho việc mỡ mang kiến thức và là bài học quý giá để chúng ta học tập và ngăn ngừa. Trong Kinh Bát Đại Nhân Giác có dạy: "Quảng học đa văn, tăng trưởng trí tuệ". Nếu chúng ta không học rộng nghe nhiều làm sao được tăng trưởng trí huệ?

Ý nghĩa của chữ học ở đây không chỉ có cắp sách đến trường mới gọi là học. Thực ra qua kinh nghiệm bản thân, qua thực tế hiện sinh, qua những cái mắt thấy tai nghe, qua sách vở ta chọn lọc tiếp thu được những điều hay lẽ phải. Tất cả hình thức đó đều là học cả. Thế nên theo dõi tin tức thế giannâng cao kiến giải cho sự tu hành của mình phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Riêng vấn đề giáo dục gia đình người Phật tử phải có trách nhiệm cao hơn nữa. Khi chưa hiểu đạo thì ta hướng dẫn con cái theo chiều hướng thế gian. Nay hiểu đạo phải có bổn phận hướng dẫn con trẻ sống theo tinh thần Phật dạy Thế nên, tu không phải mặc nhiên ai làm gì thì làm, tốt xấu mặc kệ, mình chỉ biết lo phận mình là đủ. Chính ra người hiểu đạo phải tích cực cải thiện bản thânkhuyến hóa người khác tránh ác hành thiện.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22947)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22472)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21745)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23318)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21180)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21761)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23600)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20414)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24736)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18982)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30968)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23976)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27757)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26503)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38114)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18429)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19947)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19029)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23138)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22902)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15842)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18842)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19643)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20145)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19947)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18110)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16408)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39221)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26045)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20091)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18841)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24048)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29104)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22898)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30937)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20997)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26845)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20663)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26244)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23317)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15822)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19838)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28948)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20679)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19412)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30480)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36414)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33197)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35539)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20966)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21910)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25251)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25784)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant