Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

21. Phẩm Như Lai Thần Lực

26 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 7306)
21. Phẩm Như Lai Thần Lực

KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012

Chương Thứ Hai Mươi Mốt

Phẩm NHƯ LAI THẦN LỰC

Download Giọng Đọc: Nguyên Hà 

 

Như Lai thần lực là sức thần của tâm Như Lai tức là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm. Đó là cái tâm mầu nhiệm của tất cả mọi chúng sinh.

Nói về Như Lai là thuộc về thế giới Bổn môn tức là thế giới vượt thoát khỏi không gian thời gian, thế giới bất sinh bất diệt. Thế thì Như Lai không phải là một, hay Như Lai không phải ở đây và lúc này mà Như Lai ở khắp mọi nơi, bao trùm khắp mọi thời gian và có hằng hà sa số phân thân vì vậy thọ lượng Như Laivô lượng vô biêndĩ nhiên thần lực Như Lai cũng rộng lớn bất khả tư nghì. Vì thế trong kinh Kim Cang, Phật dạy rằng : ”Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thanh cầu ngã, Thị nhơn hành tà đạo, Bất năng kiến Như Lai” nghĩa là : ”Nếu thấy ta bằng sắc tướng, nghe ta bằng âm thanh, người nầy đi đường tà, không thấy được Như Lai”.

Vậy Như Lai ở đây không phải là Phật Thích CaNhư Lai chính là Pháp thân thường trụ và cũng chính là bản thể chân như của vạn pháp. Do đó vạn pháp hiện hữu trên thế gian vũ trụ là đều do hiện tượng duyên sanh của bản thể chân như. Nếu hiểu theo hiện tượng duyên sanh thì Như Laiđức Phật Thích Ca cho nên Phật có diệu dụng thần thông mà người thường không thể biết được nên gọi là thần lực của Như Lai. Nhưng ở đây Như Laibản thể chân như, bất sinh bất diệt, trùm khắp nên thần lực của Như Lai chính là Tri Kiến Phật nơi chính mình.

Lúc bấy giờ, vô số Bồ-tát đã từ đất vọt lên ở trước Phật, tất cả đểu nhất tâm chấp tay, chiêm ngưỡng dung nhan Phật mà bạch rằng:

-Thế Tôn ! Sau Phật diệt độ, chúng con sẽ rộng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở xứ nào mà phân thân Phật đã diệt độ hết. Bởi vì chúng con cũng muốn đọc, tụng, biên chép, giảng nói để cúng dường “Đại Pháp Chân Tịnh” nầy.

Tâm là đất cho nên khi tâm thanh tịnh tức là vô minh phiền não đã sạch thì Tri Kiến Phật hiển hiện ví như từ đất vọt lên không còn vướng bận những ô trược của thế tình. Tuy Ứng thân Phật có sinh diệt, nhưng Pháp thân Phật bất sinh bất diệt và có hằng hà sa phân thân trùm khắp tức là Hóa thân của Phật ở đâu thì Pháp thân trùm khắp ở đó cho nên bất cứ nơi nào có chúng sinh là nơi đó có Tri Kiến Phật. Vì thế tinh thần Pháp Hoa, chân lý Tri Kiến Phật không bao giờ mất nghĩa là thần lực Như Lai quả là bất khả tư nghì. Nếu chúng sinh sống trong mê mờ bất giác, bị ái dục nhận chìm không còn thấy ánh sáng chân lý thì người đó sống trong thời Phật diệt độ. Ngược lại có chúng sinh luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm, biết rõ ràng những biến hành của tâm để kìm chế nó, không chạy theo tham đắm dục tình khiến tâm được thanh tịnh nhẹ nhàng thì người đó sống trong thời Phật còn tại thế. Do đó Phật diệt độ hay Phật còn tại thếtùy theo con người có khả năng làm chủ bản tâm của mình hay không thế thôi chứ Phật lúc nào cũng thường trụ vĩnh hằng trong suốt thời giankhông gian. Vì vậy Phật ở trong tâm của ta chớ không ở đâu xa. Khi mê thấy Phật xa cách nghìn trùng nên cầu Phật hướng Đông hướng Tây đến khi thức tỉnh biết tâm mình là Phật thì có an vui tự tại Niết bàn.

Lúc ấy, trước mặt Văn Thù Sư Lợivô lượng Bồ-tát xưa kiathế giới Ta-bà, cùng các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và Thiên Long bát bộ, Thế Tôn hiện sức thần thông lớn: le lưỡi rộng dài tới cõi trời Phạm thế và các lỗ chân lông phóng ra vô số hào quang đủ màu, khắp soi mười phương thế giới. Các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới cội cây báu, cũng làm như thế: le lưỡi rộng dài và phóng ra vô lượng hào quang.

Đức Phật Thích Ca tu hạnh Bồ Tát trong vô số kiếp nên Ngài có 32 tướng tốt và 80 vẽ đẹp. Nói thế có nghĩa là tướng lưỡi của đức Phật dài hơn so với người thường. Nhưng ở đây kinh nói lưỡi Phật dài trùm đến cõi trời Phạm thế. Vậy ý kinh như thế nào? Đây là lối diễn bày những đức hạnh của Như Lai là:

1)Chân ngữ giả: lời nói của Như Lai là nói lời chân lý.

2)Thật ngữ giả: Như Lai không nói thì thôi còn nói thì chỉ nói lời chân thật, không bao giờ nói lời xảo trá điêu ngoa, phỉnh phờ, lường gạt.

3)Bất dị ngữ giả: Trước sau như một không thay đổi. Đã là chân lý thì lúc nào cũng vậy và Như Lai nói ở đâu cũng thế.

4)Bất cuốn ngữ giả: Lời nói của Như Lai không hề có dối gạt.

Vì những đức hạnh cao quý đó mà ngay cả hàng trời là những người có nhiều phước đức trùm khắp mà cũng phải kính phục. Thật vậy, Phật là thiên nhơn chi đạo sư nghĩa là Phật là thầy của trời, người. Và tứ sanh chi từ phụ nghĩa là Phật đem lại sự lợi ích cho bốn loài chúng sinh. Vì thế lời nói của Như Laigiá trị trùm khắp cõi trời Phạm thế. Do đó lưỡi dài ở đây chính là lời thuyết pháp, là âm ba vang dội khắp cõi trời đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Lỗ chân lông phóng ra vô số hào quang soi chiếu khắp cả mười phương. Hào quang kinh nói ở đây là trí tuệ chớ không phải thứ ánh sáng bình thườngcon người nhận biết. Phật là người hằng sống với Tri Kiến Phật, với chơn tâm, với Phật tánh nên tâm các Ngài thường trụ Niết bàn do vậy ngoài lục căn thanh tịnh thì toàn thân của Phật cũng sáng suốt thanh tịnh có thể soi chiếu khắp cả mười phương.

Đức Phật Thích Ca và các đức Phật dưới cây báu hiên sức thần thông mãn trăm ngàn năm, sau đó mới rút lưỡi vô và đồng thời tằng hắng, cùng chung khảy móng tay. Hai tiếng vang đó lang khắp mười phương thế giới của chư Phật, Đại địa rung động sáu cách. Trời, rồng, dạ-xoa… người và loài chẳng phải người,… nhờ sức thần Phật đều thấy cõi Ta-bà vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức Phật ngồi trên toà sư tử, dưới những cây báu, thấy Phật Thích CaĐa Bảo Như Lai ngồi trên tòa sư tử trong tháp báu. Lại thấy vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức Bồ-tát và tứ chúng cung kính vây quanh đức Phật Thích Ca. Tất cả đều vui mừng như được cái chưa từng có.

Lưỡi là nơi phát xuất ra âm thanh, lời nói. Nhưng lời nói của chư Phật có một giá trị chân thật đem lại sự an lạc thanh tịnh cho chúng sinh. Bởi vì chư Phật một khi nói thì nói đúng với chân lý, nói lời chân thậtlời nói trước sau đồng nhất không hề gian dối. Vì lời nói quá giá trị nên có ảnh hưởng sâu rộng lan truyền trong dân gian. Còn một thứ âm thanh nữa là Diệu Âm. Khi ta nghĩ niệm lành thì chính mình nghe rất rõ trong tâm là mình đang nghĩ niệm lành. Ngược lại nếu chúng sinh phát sinh một ác niệm để ám hại người thì chính mình cũng nghe rất rõ rằng mình đang nghĩ niệm ác. Nếu nghe âm thanh thiện thì con người có khuynh hướng làm việc lành, việc tốt. Ngược lại âm thanh bất thiện dẫn dắt chúng sinh sa vào tam ác đạo. Vì thế người có chánh niệm thì sẽ thấy biết rõ ràng đó là loại âm thanh nào, tốt thì giữ lấy còn xấu thì bỏ ngay. Tỉnh thức giúp chúng sinh sống sáng suốtchánh niệm giúp họ ngăn chận những tạp nhiễm không cho lọt vào tâm để sai sử con người. Nên nhớ không có một người làm một điều ác nào mà không có âm thanh đó báo trước, nhưng những vô minh vọng chấp che phủ làm cho họ sống trong mê mờ bất giác mà tác tạo ra nghiệp. Con người có khổ, có sống chết cũng vì bả công danh, mùi phú quý cho nên Ôn Gia Hầu có câu:

Mồi phú quý dữ làng xa mã,

Bả vinh hoa lừa gã công khanh

……….

Gót danh lợi bùn pha sắc xám

Mặt phong trần nắng rám mùi dâu

Nghĩ thân phù thế mà đau

Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.

Nhưng cuối cùng thì:

Trăm năm còn có gì đâu

Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì.

Vì thế người có chánh niệm, luôn sống trong tỉnh thức thì có thể làm chủ tâm mình, không chạy theo những vọng niệm điên đảo thì cuộc sống mới an vui tự tại được.

Chư Phật tằng hắng và cùng nhau khảy móng tay cốt là để cho chúng sinh thâm nhập cái Tri Kiến Phậtngôn ngữ con người không thể nào nói được. Nên nhớ Phật gây âm thanh không phải để chúng sinh suy nghĩsuy nghĩ là vẫn còn lạc vào trong ý thức nên chưa ngộ được bản thể chân như của chính mình. Phật dùng phương tiện tạo ra tiếng động vang dội khắp mọi nơi để chúng sinh quán chiếu cái bất sinh bất diệt, không hình không tướng và bao trùm khắp mười phương. Khi chúng sinh nhận ra cái chân thật này thì chính họ kiến đạo tức là ngộ nhập Tri Kiến Phật của chính mình.

Sống trong thế gian này, người nào biết tu tập, sử dụng được cái sức thần của tâm Như Lai thì chính họ sẽ thấy rõ mười phương pháp giới liên kết với nhau, thông đồng không chướng nên pháp giớinhất chân tức là bất nhị. Đó là tâm của chúng sinh chạy lên chạy xuống có lúc thì nhẹ nhàng thanh thoát như những vị trời. Có lúc tham lam chạy theo sự thèm khát dục vọng như ngạ quỷ, súc sanh. Có lúc sống trong khổ sở dày vò khác chi là địa ngục.. Nay nhờ thần lực Như Lai, chúng ta biết rõ lúc nào nó khởi ý niệm của địa ngục. Lúc nào nó khởi ý niệm xúi giục vào những khát vọng của ngạ quỷ, súc sanh, hay của người, trời, Thanh Văn, Duyên giác… Thí dụ thấy tiền nhiều tâm tham liền nổi dậy nên tâm sai khiến con người làm bất cứ việc gì để chiếm đoạt số tiền đó về cho mình. Bây giờ nhờ sức thần của Phật (tâm) nên ta biết rõ những biến hành của tâm mà loại trừ những tà niệm tham đi. Do đó sức thần Như Lai chính là sự thức tỉnh, chánh niệm để thấu biết rõ ràng những biến đổi hình thành của tâm ở bất cứ thời điểm nào và từ đó mới kiềm chế, làm chủ nó được. Vì thế sự an vui tự tại của chúng sinh tùy thuộc vào cường độ tiêu diệt những khác vọng của ái dục cho nên người nào xa lìa ái dục càng nhiều, dám từ bỏ những tham đắm của thế trần thì người đó càng có nhiều an lạc. Ngược lại người nào càng chạy theo sắc dục thì chính họ sẽ bị nhận chìm trong biển khổ trầm luân, tuy có nhiều tiền, sự nghiệp to lớn, công danh vinh hiển, nhưng không bao giờ có được những giây phút an lạc trong tâm hồn. Nói cách giải thoát giác ngộ của đạo Phật không bao giờ xuất hiện trong tâm hồn của những ai có công danh lớn, sự nghiệp to, đời sống đầy uy quyềntham vọng bởi vì trong tâm của họ chất đầy phiền não tính toán lo âu nên không còn không gian để trở về sống thanh tịnh với chơn tánh của mình. 

Khi sống với Tri Kiến Phật thì không bị giới hạn bởi thời gian hay không gian cho nên nhìn thế gian vũ trụnhất chân pháp giới nghĩa là mười phương là một và một chính là mười phương, không sai khác.

Nếu chúng sinh biết sống đúng với Tri Kiến Phật thì đây chính là sức thần Như Lai thì họ sẽ thấy vô lượng vô biên chư Phật và hằng hà vô số chư Bồ Tát. Vậy Phật đó và Bồ Tát đó ở đâu mà nhiều thế? Đó là do tự tâm của chúng ta mà có. Tại sao? Bởi vì khi đã sống với Tri Kiến Phật tức là sống với chơn tâm, Phật tánh của mình thì lục căn thanh tịnh cho nên nhìn ai cũng thấy Phật tâm, Phật tánhBồ Tát tâm, Bồ Tát tánh vì thế bất cứ ở đâu và thời điểm nào cũng có vô số chúng sinh tức là vô số Phật (tánh) đó. Vì nhận thức như thế nên Thường Bất Khinh Bồ Tát gặp ai cũng đều cung kính nói rằng “ông, bà sẽ thành Phật” là vậy. Thật vậy, khi tâm được an vui thanh tịnh thì nhìn đâu cũng nhẹ nhàng thánh thoát, thấy ai cũng đáng kính đáng yêu. Ngược lại khi tâm đang bực bội, ưu phiền thì nhìn cảnh gì cũng thấy khó chịu, nhìn ai cũng thấy không hài lòng cho nên không bao giờ thấy Phật hay Bồ Tát được.

Ngay lúc ấy, chư thiên trong hư không lớn tiếng xướng lên: “ Cách đây vô lượng thế giới, có nước tên là Ta-bà, nơi ấy có phật hiệu Thích Ca, hiện đang vì các Đại Bồ-tát nói kinh Đại Thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Các ngươi nên vui theo trong thâm tâm, cũng nên lễ bái cúng dường Phật Thích Ca”.

Không nhất thiết âm thanh xướng lên trong hư không là của chư Thiên mà thật ra khi một người hướng về giải thoát giác ngộ sống với chơn tâm, Tri Kiến Phật của chính mình thì họ nghe rất rõ vô số những âm thanh, bài pháp nhắc nhở khuyến khích họ trên con đường học đạohành đạo. Đối với người có chánh kiến, chánh niệm, chánh tư duy thì nghe rất rõ còn người ngồi kế bên bị phiền não vô mình che lấp tâm trí thì không hề hay biết. Khi tâm an tịnh thì họ sẽ nghe rất nhiều tiếng nói của chư thiên, nhưng thật ra đó là tiếng lòng tức là Diệu âm của chính mình làm cho tâm hồn thanh thoát vô cùng. Từ đó họ sẽ nghe Chánh pháp rất vi diệu, nghe thấu suốt Bát Chánh Đạo, Thất Giác Chi… khiến tâm càng thêm thanh tịnh an nhàn.

Nếu chúng sinh có được những giây phút thanh tịnh quay về để nghe rõ tiếng Diệu Âm và sống được với tiếng nói huyền diệu của tâm mình thì thời điểm đó họ được vãng sanh tương ứng với những niệm thanh tịnh đó nghĩa là “nhất niệm tương ưng nhất niệm sanh”. Còn những vị tu hành cao hơn, công phu lớn mỗi mỗi niệm liên tục thanh tịnh không dứt tức là “niệm niệm tương ưng niệm niệm sanh” thì người đó sẽ ở vĩnh viễnthế giới cực lạc tức là cõi Tịnh độ vậy. Thế thì Tịnh độ là đây, cực lạc là đây thậm chí địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh cũng là đây không ra ngoài cái bản tâm của con người. Vì thế Phật dạy rằng: “Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh. Dục tịnh Phật độ tiên tịnh kỳ tâm” nghĩa là khi tâm mình thanh tịnh thì thế giới sẽ an bình thanh tịnh. Mà muốn có cõi Phật thanh tịnh (Tịnh độ) thì tâm mình phải thanh tịnh trước. Ngược lại tâm mình không thanh tịnh, chất đầy phiền não vô mình mà muốn dời cõi Phật nào đó về đây hay về cõi Phật nào đó là chuyện không bao giờ có, sống trong ảo tưởng tức là tưởng tri. Đạo Phật là đạo phát triển trí tuệ để tự mình trực nhận chân lý tức là tuệ tri.

 Chúng sanh nghe tiếng hư không ấy rồi bèn chấp tay , quay về cõi Ta-bà, cử thanh niệm:

Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật!”

Rồi dùng các món hoa, hương, chuỗi ngọc, cờ, lọng, xa rải xuống thế giới Ta-bà. Các vật rải đó, từ mười phương đến ví như mây đùn, biến thành một bức màn báu trùm khắp không gian, phía trên chư Phật. Bấy giờ, thế giới mười phương thông suốt với nhau, không gì ngăn ngại, quốc độ chư Phật trở thànhPháp giới không hai”.

Khi chúng sinhtâm thanh tịnh thì thế giới mười phương thông suốt với nhau, không còn ngăn ngại nghĩa là pháp giới nhất chơn cho nên đối với những thế giới xa xôi và thế giới Ta Bà này không còn xa xôi, ngăn cách nữa cho nên những việc làmcõi Ta Bà thì các thế giới khác đều thấy biết rõ ràng coi như gần một bên vậy.

Thí dụ có người vừa giải quyết xong một vấn đề khó khăn nào đó nên lòng thư thái tự tại. Tại thời điểm đó anh ta nhìn cái gì cũng dễ chịu, thấy ai cũng thích, cũng hòa khí. Ngược lại một người trong nhà vừa xảy ra một biến cố nên lòng ưu tư, lo lắng, buồn phiềnthế cuộc đời đối với anh ta lúc này chẳng có gì thích thú chẳng khác chi một màu đen ảm đạm. Thế thì cuộc đời đâu có vui, đâu có buồn mà nó là như vậy tức là “Như Thị” cho nên người biết làm chủ tâm mình thì thế giới này sẽ trở thành thanh tịnh cực lạc Niết bàn. Ngược lại nếu thế giới bên ngoài làm chủ tâm mình thì phải trôi nổi trong biển sinh tử trầm luân, không có lối thoát. Do đó thế giớibất nhị tức là Ta BàTịnh độTịnh độTa Bà nghĩa là tâm tịnh thì có cõi Tịnh độ ngược lại tâm đau khổ ưu phiền thì Tịnh độ biến mất, Ta Bà xuất hiện. Cũng như mê giác là một nghĩa là hết mê thì giác hiển hiện chớ không thể ngoài mê tìm giác được. Thế thì tâm con ngườiNhất chân pháp giới bằng chứng là khi chúng sinh biết thức tỉnh sống đúng chánh niệm, gát bỏ hết danh vọng, tiền tài, thương ghét, ham muốn, hờn giận…thì lúc đó tâm trở thành thanh tịnh tức là mình đang sống trong cõi Tịnh độ. Lúc nào thanh thoảng thì tâm ta là trời, là Thanh Văn, Duyên Giác. Ngược lại nếu tâm chúng sinh cực ác thì ta đang sống trong địa ngục. Còn nếu bất chấp luân thường đạo lý, sống thát loạn thì chẳng khác chi loài ngạ quỷ súc sanh.

Nhắc lại sau khi thành đạo đức Phật trở về cung thành Ca tỳ la vệ thăm lại phụ thângia đình. Thấy con mình bây giờ là người khất sĩ tức là người ăn xin, vua Tịnh Phạn thấy đau nhói trong lòng nên bảo đức Phật trở về làm vua. Đức Phật chối từtrả lời rằng “Con thấy cuộc đời không có gì là an lạc, ngay cả Phụ vương có quyền uy thế lực thế đó mà Phụ hoàng đâu có giây phút an vui thực sự. Trong triều đình có biết bao người tranh chấp, ngoài biên cương phải lo chống đở giặc ngoại xâm đó là chưa kể làm thế nào để có quốc thái dân an. Vì vậy buông xả, không dính mắc thì đây mới là hạnh phúc chân thật, là sự an lạcthế giới vật chất không bao giờ đem lại cho mình được”.

Tóm lại, trong thế giới vũ trụ này không có nơi nào là xấu, là ô uế hay làm toàn bằng vàng bạc kim cương cả mà chỉ tại tâm con người cho nên tâm tịnh thì thế giới trở thành cực lạc. Ngược lại tâm bất tịnh, buồn phiền đau khổ thì cũng thế giới này bây giờ trở thành âm u đen tối, địa ngục A tỳKinh điển Đại thừa thường hay dùng ẩn dụ để chỉ cho những biến hành của tâm. Thí dụ khi thấy thế giới toàn là sỏi đá, lồi lỏm tức là ám chỉ cho tâm chất đầy phiền não, đau thương. Ngược lại thế giới bằng phẳng, làm bằng pha lê, kim cương, cẩm thạch là ám chỉ cho tâm thanh tịnh nên trong sáng như pha lê.

Lúc bấy giờ, Phật bảo các hàng Bồ-tát bậc thượng hạnh rằng:

-Sức thần thông của chư Phật vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn như thế. Nếu ta dùng sức thần thông ấy mà nói bày công đức của kinh Diệu Pháp Liên Hoa để lưu truyền về sau, thì dầu có trải qua vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức kiếp cũng chẳng nói hết. Tóm lại tất cả pháp của Như Lai, tất cả thần lực tự tại của Như Lai, tất cả kho tàng bí yếu của Như Lai, tất cả những điều hết sức thâm sâu của Như Lai đều được tuyên bố, bày giải, nói rõ trong Diệu Pháp Liên Hoa. Cho nên, sau Như Lai diệt độ, các người phải một lòng thọ trì, đọc tụng biên chép, giảng nói và tu hành đúng theo lời nói trong kinh. Nơi nước nào mà có người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói, tu hành đúng theo lời kinh, hoặc chỗ nào có quyển kinh Pháp Hoa, bất luận nơi đó là: vườn, rừng, dưới cội cây, phòng chư tăng, nhà người thế tục, chỗ thờ Phật, núi hoang, đồng trống thì nên dựng tháp cúng dường. Phải biết chỗ có kinh đó là: đạo tràng, là nơi chư Phật được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, là nơi chư Phật chuyển Pháp luân, là nơi chư Phật nhập Niết Bàn.

Để lập lại nghĩa vừa nói, Thế Tôn nói một bài kệ.

Thần lực Như Lai thì vô lượng vô biên. Nhờ thần lực Như Lai làm cho pháp giới trở thành nhất chân tức là bất nhị nhờ đó tất cả thế giới thông đồng nhau không hề ngăn ngại. Từ đó một người từ thế giới khác có thể thấy biết rõ ràng những gì xảy ra ở thế giới này hay người từ thế giới Ta Bà có thể thấy biết mười phương quốc độ mà không hề có cách ngăn. Nhờ sức thần Như Laicon người nghe được những tiếng âm ba thanh tịnh nhẹ nhàng phát xuất từ trong tâm hồn của mình.

Thần lực Như Lai mà kinh nói ở đây chính là Tri Kiến Phật, là cái thể bao hàm tất cả thần thông diệu dụng. Vì thế nếu chúng sinh quay về sống với Tri Kiến Phật của chính mình thì lục căn thanh tịnh, tâm trí bừng sáng mọi diệu dụng theo đó mà có, nghĩa là không cầu thần thôngvẫn có thần thông bởi vì thần thông là từ bản thể chân như mà phát ra. Đối với Phật giáo, thần thông không có gì quan trọng bởi vì hành giả đi sâu và sống đúng với Tri Kiến Phật thì sẽ có thần thông trong khi đó ngoại đạo nhờ sức tu luyện cũng có thần thông, nhưng khi không còn tu luyện nữa thì thần thông tan biến.

Thần lực Như Lai nghĩa là sức thần Như Lai là sức nhiệm mầu huyền diệu sự giác ngộ chân lý đến chỗ tận cùng và sức mạnh huyền diệu của nội tâm đưa con người đạt đến cứu cánh giải thoát của đỉnh cao trí tuệ. Thần lực Như Lai không phải là Thần lực của Như Lai bởi vì Thần lực của Như Lai là sức thần thông diệu dụng của một vị Phật chẳng hạn như đức Phật Thích Ca. Trong khi Thần lực Như Laisức mạnh thần diệu của bản tâm của mình tức là Phật tánh, là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm.

Tóm lại, bản nguyện của chư Phật là muốn chúng sinhkhai,thị,ngộ,nhập Phật tri kiến”nghĩa là đức Phật muốn khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập cái thấy biết của Phật và cũng chính là cái thấy biết của Pháp Hoa vốn đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh.Đó là trong tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng có đầy đủ tri kiến Phật, là trí tuệ bổn lai đều giống như Phật. Vậy Phật tri kiếnđức Phật muốn nói ở đây chính là chơn tâm, là Phật tánh thường có vĩnh hằng, nhưng vì bị vô minh che lấp nên con người không thấy biết chơn tánh hằng giác của mình.Vì thế chúng sinh tuy có thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa là chỉ biết Pháp Hoa bằng văn tự, nhưng thật ra muốn tỏ ngộ và thâm nhập Pháp Hoa thì chúng sinh phải biết kinh Pháp Hoa Vô Tự tức là biết được cái Tri Kiến Phật của chính mình. Do vậy người nào thâm ngộ được Tri Kiến Phật thì tâm họ có Phật xuất hiện và nơi nào có người thâm ngộ Tri Kiến Phật thì nơi ấy có Phật hiển hiện. Sau cùng, nơi nào có kinh Pháp Hoa là nơi ấy chư Phật thành tựu Vô thượng Bồ Đề, chuyển Pháp luânnhập Niết bàn.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10351)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12240)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15366)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16670)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12286)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11532)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14340)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24678)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10734)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12537)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10456)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12389)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11697)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12083)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13062)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11490)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17494)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21497)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10721)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19334)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12465)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26122)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14435)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13768)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16898)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17654)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13192)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12564)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11662)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11666)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20522)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19066)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19650)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18759)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15108)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15100)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14032)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15566)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14594)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15907)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12933)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18509)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15821)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11122)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53754)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13039)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16632)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15495)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 20019)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15613)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15424)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15221)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10451)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20444)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15574)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13098)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20299)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13334)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29065)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11761)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant