Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Phẩm Tính Tathāgata – Như Lai

26 Tháng Sáu 201518:13(Xem: 7029)
Ý Nghĩa Phẩm Tính Tathāgata – Như Lai
Ý nghĩa Phẩm tính Tathāgata – Như Lai
[Trích Tổng luận Năng Đoạn Kim Cương]

Phước Nguyên


Ý nghĩa Phẩm tính Tathāgata Như Lai


I.1. Ngữ nguyên Tathāgata

Trong kinh Kim cương Phạn ngữ xuất hiện thuật từ Tathāgata , vậy nội hàm của nó mang ý nghĩa như thế nào? Khó mà có một câu trả lời đầy đủ và thỏa đáng. Trong sự vay mượn của ngôn ngữ và hãn hữu của tư duy, chúng ta chỉ có thể giải thích tương đối về những ý nghĩa đơn thuần của nó.

Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tốtathāAgata hoặc tathāgata. Gata có nghĩa là “đã đi” vì nó làm vai trò là động-tính thụ động quá khứ của động từ  căn gam (đi). Agata có nghĩa là "đã đến" nó làm động-tính thụ động quá khứ của động từ căn gam có nghĩa là (đến). Tathā với ý là chân như, nhất như, hay như thực. Nên Tathāgata là người “đến và đi từ chân như”.

Một giải thích khác, đề xuất bởi học giả Richard Gombrich, dựa trên ngữ pháp sanskrit, khi được sử dụng như là một hậu tố từ trong hợp từ Tathāgata,  đuôi -gata thường mất ý nghĩa đen của nó và thay vì được hiểu là "được, đi, thành tựu/v.v.."; từ đó, Như Lai sẽ được hiểu theo nghĩa "Nhất như", không có sự dịch chuyển theo cả hai hướng[1]. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến bất đồng cho rằng về cách giải thíchý nghĩa chính xác ban đầu của nguyên ngữ Tathāgata này đều không có cơ sở chắc chắn[2].

Tạng ngữ Kim Cương có từ  tương đương với Tathāgata  là དེ་བཞིན་གཤེགས་པ་ de bzhin gshegs pa/ (dezhin shekpa) thường đường hiểu là “đi-như thế”(thus-gone); hay “nhất như” (One Gone Thus); trong Tây Tạng từ này cũng dùng để chỉ cho phẩm tính của Phật (epithet of the Buddha).

I.2. Luận Tathāgata đông-tây

Peter Harvey khi bàn về thuật ngữ Tathāgata, cho là đồng nghĩa với A-la-hán 阿羅漢[3] và định nghĩa là người đã đạt đến đời sống thánh thiện tối thượng[4]; hay Như Lai (Tathāgata) cũng được cho là tương đương với Vô thượng sĩ (anuttarapuruṣa) tức là bậc tối thượng tôn của chúng sinh[5]; Đôi khi Tathāgata được hiểu là một con người siêu việt[6].

Về nghĩa nguyên của từ ngữ này, Chalmers nhận định rằng: những ức đoán về ý nghĩa của nó đã xuất hiện từ thời đức Phật, có tám giải thích về từ này trong Sumaṅgalavilāsinī Dīghanikāya (chú giải kinh Trường Bộ) của ngài Buddhaghosa, đó là do có sự phân tích ngữ nguyên khác nhau[7].

Theo Theodore Stcherbatsky, Tathāgata, có nguồn gốc đầu tiên không phải từ Phật giáo, và được chứng minh khi so sánh với việc sử dụng của nó trong các tác phẩm phi Phật giáo, chẳng hạn như Mahabharata[8]; Stcherbatsky đưa ra thí dụ sau đây từ Mahabharata (Shantiparva, 181,22 ): “Cũng như các dấu vết chim (bay) trong bầu trời và cá (bơi) trong nước không thể được nhìn thấy, thực tại (tātha) có mặt (gati) với những người nào đã nhận ra chân lý”[9].

Ta cũng có thể tách Tathāgata ra thành hoặc Tat-Agata có nghĩa một người đã đi đến đó [thực tại tối hậu]; Tat nó có vai trò như danh từ trong hợp từ Tathāgata. Thuật ngữ này có liên quan và được gán cho Brahman (thực tại tuyệt đối - Reality Absolute) trong siêu hình học Hindu từ thời xa xưa, thí dụ như một câu nói khá nổi tiếng trong Upanishad: "Điều đó (Brahman) là thuật của ngươi"[10].

Edward Conze khi luận về ý nghĩa của Tathāgata, ông nói, đó là biểu thị cho “chân ngã” vốn có nơi mỗi chúng sinh; Tathāta được gọi chung là chân như, và sau này phát triển thành Tathāgata được hiểu là chân ngã, hay “chân như” nơi mỗi người[11].

Như vậy, Tathāgata trong Prakrit cổ có thể được hiểu như nghĩa đen của nó: “Người đã đạt đến tuyệt đối” (The sage who has arrived at the Absolute), định nghĩa này đa số được các nhà Phật học trường phái Đại thừa giải thíchchấp nhận.

Tyson Anderson, khi bàn về ý nghiã bản chất Tathāgata , ông nói rằng trạng thái của các vị Như Lai, A la hán, cả trước và sau khi nhập Niết bàn , nằm ​​ngoài phạm vi có thể mô tả thông một cách thường ngôn ngữ chúng ta; đó là, tập hợp các uẩn và sự tham lam, sân hận, và si mê được "thổi tắt" với niết bàn[12].

Ý kiến của Childers trong bộ từ điển Pāli của mình, chúng ta có thể lược ghi lại như sau: Điều khá hiển nhiên rằng, thuật ngữ Tathāgata lần đầu tiên được áp dụng cho một chúng sinh chứng được quả vị Phật-đà; Là tên gọi cho một vị đã thành Phật với ý nghĩa là “sự tuyệt diệu” (excellence), trong các kinh, thông thường đức Phật Thích Ca thường xưng ngài là “Như Lai”.

Theo Shuhmacher, Stephan and Gert Woerner trong Đại thừa Như Lai là để chỉ cho đức Phậtphương diện hóa thân của ngài. Như Lai gọi là đấng Đại Trượng Phu, người có khả năng biến thể dưới mọi hình thức và đã thành tựu thập lực, bốn pháp vô sở úy, mười tám pháp bất cọng v.v... của các vị Phật; thông hiểu tất cả nguyên tắc, bản chất của vũ trụ, không còn bị ràng buộc bởi bất kỳ điều kiện, yếu tố nào nữa. Ngài là vị đã vượt ra khỏi hai hình thái bản chấtthế giới hiện tượng (Ly lưỡng biên). Trong ý nghĩa chân đế, Như Lai Tathāgata thường bị đánh đồng với śūnyatā (không), prajnapti (giả danh)[13].

I.3. Luận Tathāgata Kinh Luận.

I.3.1. Đại Thừa Kinh Luận

Như Lai là Bậc Ứng cúng, Đẳng chánh giác, Minh Hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế tôn. Đó là điều mà đức Thế Tôn đã nói rõ trong Kinh Thiện Đạo[14], như vậy chúng ta hiểu tại sao về sau lại có nhiều quan điểm của các bộ phái cho rằng phẩm tính Tathāgata đã bao hàm ý nghĩa của các phẩm tính giác ngộ khác.

Kinh thuật lại, có một lần, đức Phật kể về nhơn địa của ngài trong khi tu hành còn làm Bồ-tát, trải qua sự tu tập các hành, với mục đính để mong cầu Tuệ giác vô thượng, nay đã thành đạt được sự chân thực của Tuệ giác và Niết-bàn, sự thành đạt ấy là thể chứng được tri kiến chân thực về Bát Thánh Đạo, nên được gọi là Như Lai (Tathāgata); và như chư Phật quá khứ đã nhiếp hộ tâm, làm cho tâm vắng mặt mọi khởi sinh của phiền nãođi vào Niết-bàn, cho nên có danh hiệuNhư Lai[15].

Kinh Đại Bát Niết Bàn nêu lên ba định nghĩa sau[16], không thấy có định nghĩa nào được nêu lên từ nguyên ngữ Sanskrit, các định nghĩa được đức Phật trình bày từ ý nghĩa của nó:

Giống như những điều được diễn thuyết bởi chư Phật quá khứbất biến; Tại sao nó bất biến, vì mười hai thể tài kinh điển đã được chư phật quá khứ thuyết giảng để hóa độ chúng sinh; thời đức Thích Ca Như Lai ngài cũng đã diễn nói Như vậy, nên gọi là Như Lai.

Hết thảy chư Phật Thế Tôn, từ sáu ba-la-mật[17], ba mươi bảy phẩm trợ đạo, mười một Pháp Không mà đi đến Niết-bàn, cho nên có danh hiệuNhư Lai; Như Lai cũng “như vậy” nên có danh hiệuNhư Lai.

Chư Phật, Thế Tônchúng sinhtùy nghi khai thị ba cỗ xe, thọ mạng vô lượng, không thể suy lường; Như lai cũng như thế nên được gọi là Như Lai[18].

Đức Phật được gọi là Tathāgata, bởi vì từ lúc sau bốn mươi chín ngày đêm, lúc sao mai ló dạng, nơi cội cây Tất-bát-la, Bồ-tát Sĩ-đạt-ta đã chứng ngộ Tuệ giác tối thượng; cho đến nửa đêm ở xứ Câu-thi-na, dưới hai tàng cây Ta-la, đức Thích Tôn thể nhập vô dư Niết-bàn, thời gian ở giữa đó, tất cả những gì được diễn tả, được thuyết giảng, được trình bày bởi ngài đều được gọi là Tathā (Như); bởi nó không hư vọng, không có biến diện, nó đích thực như thế, hiện kiến rồi mới diễn thuyết[19].

Ngài Kumārājīva khi dịch Mahāprajñãparamitta śāstra sang hán văn, với nhan đề là Đại Trí Độ Luận, đã phiên âm Tathāgata thành Đa-đà-a-già-đà. Luận chép rõ như sau: “…như pháp tướng mà hiểu, như pháp tướng mà giảng thuyết, như con đường an ổn của chư Phật mà đi đến. Phật cũng như vậy mà đến, Phật Thích Ca Mâu Ni cũng thế, Ngài đã đi đến mà không bao giờ bị trải ở trong con đường bị tái sanh, vì vậy mà gọi ngài là Đa-đà-a-già-đà”[20]

 



[1] Jayarava, (27 February 2009), "Philological odds and ends I".

[2] Chalmers, Robert, The Journal of the Royal Asiatic Society, 1898. pp.103-115

[3] Skt. Arhat; Pāli. Arahant.

[4] Peter Harvey, The Selfless Mind, Curzon Press 1995.

[5] Ibid, "a tathāgata, a superior state of being (uttama-puriso)".

[6] Peter Harvey, An Introduction to Buddhism: Teachings, History, and Practices, Cambridge University Press, 1990, page 28.

[7] Dẫn bởi Chalmers, Robert, The Journal of the Royal Asiatic Society, 1898, pp.103-115.

[8] Florin Giripescu Sutton (1991), Existence and Enlightenment in the Lakāvatāra-sūtra: A Study in the Ontology and Epistemology of the Yogācāra School of Mahāyāna Buddhism, p.104.

[9] Skt. Tathā jñānavidam gatih, ibid, p. 104.

[10] Skt. Tat tvam asi, Cf. Chandogya Upanishad.

[11] Edward Conze, The Perfection of Wisdom in 8,000 Lines, Sri Satguru Publications, Delhi, 1994, p. Xix.

[12] Tyson Anderson, Kalupahana on Nirvana. Philosophy East and West, April 1990, 40(2)

[13] Cf. Shuhmacher, Stephan and Gert Woerner, The Encyclopedia of Eastern Philosophy and Religion: Buddhism, Hinduism, Taoism, Zen. Boston: Shambala, 1994, p. 364.

[14] Tạp A-hàm, kinh 818, Đại chánh, kinh 850. Pāli, A. 11.12-13. Mahānāma.

[15] Cf. Thập Hiệu Kinh, Đại 17, tr.719.

[16] Cf. Đại 12, Đại Bát Niết Bàn Kinh, q. 18, tr. 478ab.

[17] Skt. Pāramitā.

[18] Ibid, tr. 478ab.

[19] A-tỳ-đạt-ma Pháp Uẩn Túc quyển 2, Đại 26, tr. 46b15.

[20] Đại Trí Độ, Quyển 2, Đại 25, tr. 71b.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16512)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 12005)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12162)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12853)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12807)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10301)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14037)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10274)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13769)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16337)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12048)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13042)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11716)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12739)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10881)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11055)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 11008)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11960)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12857)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11153)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12676)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11404)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12590)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14177)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10921)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10598)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11276)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12075)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13227)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12415)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15417)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14409)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12170)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15460)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12062)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12478)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11263)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12140)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10680)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12597)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13243)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14926)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12756)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16643)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19748)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12338)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13595)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12011)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11699)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12817)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14604)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12681)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15751)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13683)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12975)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18080)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11242)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12258)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13106)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10357)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant