Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 10: Cánh Cửa Giải Thoát

19 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11799)
Chương 10: Cánh Cửa Giải Thoát

Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay
BƯỚC SEN
NỮ TU VÀ CƯ SĨ PHẬT GIÁO
CUỘC SỐNG, TÌNH YÊU VÀ THIỀN ĐỊNH
Walking On Lotus Flowers: Buddhist Women Living, Loving and Meditating
Tác Giả: Martine Batchelor - Biên Tập Viên: Gill Farrer-Halls
Việt Dịch: Diệu Ngộ -Mỹ Thanh & Diệu Liên-Lý Thu Linh
Nhà xuất bản Phương Đông 2010

PHẦN II: LUYỆN TÂM

Chương 10: Cánh Cửa Giải Thoát

Haeju Sunim

 

Haeju Sunim, Giáo sư Phật học tại một trường đại học Hàn Quốc ở Tongguk. Bà là người thông minh, trầm tĩnh. Tôi rất vui mừng khi biết rằng bà là người khởi xướng trường phái Hoa Nghiêm (Avatamsaka school), tạo ảnh hưởng rất lớn đến Thiền Phật giáo Trung Hoa, Hàn Quốc, và Nhật Bản, nhưng hiện nay trường phái nầy đã mất dần. Thật là phấn khởi được gặp một vị ni sư sống tuân theo giới luật một cách triệt để như thế.  

 KINH HOA NGHIÊM

 

Trong kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka Sutra) có dạy rằng: ‘Vạn pháp đều do tâm tạo’. Tôi xuất gia vì muốn nghiên cứu về tâm thức, vì thế tôi rất quan tâm đến kinh nầy. Càng tụng đọc Kinh Hoa Nghiêm, tôi càng nhận thấy rằng nơi cần tu tập, bồi dưỡng hơn hết, không đâu khác là ngay bản thân tôi, ngay trong giờ phút hiện tại.

Kinh còn dạy thêm: ‘Con đường đạo của Đức Phật nằm trong 84000 cánh cửa giải thoát.’ Vì thế bạn có thể thấy cả ngàn cánh cửa giải thoát, cả ngàn phương tiện thiện xảo. Vì vậy đi đến một nơi đặc biệt nào đó để tham công án không phải là con đường duy nhất để tu tập. Bất cứ trong hoàn cảnh nào, bất cứ ta đang làm gì, mọi nơi đều có thể là chỗ để đạt giải thoát. Cuối cùng tôi đã nhận ra điều đó. Vì lẽ đó, tôi ở lại Seoul và tiếp tục dạy học.

Tôi xuất gia để tìm lời giải cho vấn đề tâm thức. Tôi tu tập để đạt giác ngộgiải thoát. Tôi đã không học hành một cách nghiêm túc, vì tôi cho rằng không thể đạt giải thoát từ đó. Tôi theo học ở học viện Unmunsa trong một thời gian nhưng nhiều lần tôi đã nghĩ đến việc tìm một chỗ nào đó để hành thiền. Tuy nhiên, khi học các kinh điển, dần dần tôi bắt đầu nhận thấy rằng việc thông suốt kinh điển một cách thấu đáo là điều rất quan trọng. Sau khi tốt nghiệp ở Unmunsa, tôi tiếp tục theo học tại đại học Tongguk.

Sau khi hoàn tất chương trình đại học, tôi dự kiến phải thật sự học hỏi, thực tập ở một nơi nào đó và hành thiền ở nơi xa sâu trong núi chẳng hạn, trong khung cảnh yên tịnh. Nhưng chương trình học của tôi còn một cấp bậc nữa, vì thế tôi tiếp tục vào cao học. Tôi chọn kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka Sutra) làm đề tài hoàn tất chương trình thạc sĩ.

TẤT CẢ CHÚNG SANH ĐỀU LÀ PHẬT

Khi tôi nghiên cứu triết lý của kinh Hoa Nghiêm như một đề tài liên quan đến nguồn gốc của chư Phật, tôi tìm thấy câu kinh nầy: ‘Tâm chúng sinh chính là tâm Phật.’ Chúng sinh là Phật.

Vì tôi không biết gốc của mình là Phật, tôi không thể sống như một đức Phật. Do đó tôi hành động, cư xử như một chúng sinh. Nhưng trong tôi có một khả năng vô hạn, giống như của Phật. Vì thế tôi nghiên cứu tư tưởng chúng sinh và Phật, thân không khác.

Trong chương trình thạc sĩ, tôi nghiên cứu về tâm bồ đề, rất cần thiết để trở thành Phật. Nhưng trong chương trình tiến sĩ thì tôi không nghiên cứu ‘cái tâm để trở thành trong tương lai’, mà là ‘tâm bản sanh vốn có của chúng ta’.

Quan niệm của tôi về thế nào là tu tập đã thay đổi hoàn toàn. Bây giờ tôi thực tập bằng cách nầy, ngay nơi đây chính lúc nầy. Tôi đã được phú cho tâm Phật ngay từ đầu, tôi áp dụng trực tiếp và sử dụng nó trong khả năng tốt nhất của mình. Đó là cốt lõi của công phu tu tập của tôi. Đó là điều quan trọng cần được truyền dạy lại cho bất cứ ai quan tâm đến vấn đề nầy.

PHẬT SỰ

Cuộc sống của tôi rất khác biệt so với các ni sống chung trong ni chúng. Cả đời tôi quẩn quanh ở đại học, theo thời khoá biểu của một giáo sư. Tôi dạy hầu hết các ngày từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều; đôi lúc tôi có lớp giảng vào buổi tối. Thời gian còn lại tôi chuẩn bị giáo án hoặc quán chiếu tâm. Tôi cũng hành thiền chánh niệm chút ít. Tôi viết các bài luận văn về Kinh Hoa Nghiêm, rồi gom lại thành sách.

Điều quan trọng là thái độ của chúng ta đối với tâm thức. Tất cả việc tôi làm, tôi đều xem như là một Phật sự. Như Kinh Hoa Nghiêm đã dạy: ‘Trên thế gian nầy, không có một việc làm nào mà không phải là Phật sự, nhất là khi việc ấy mang lại hạnh phúc cho người. Trong Phật Pháp (Buddhadharma), không có một pháp nào có thể bị chối bỏ.’

Khi tôi dạy học, việc nầy khác với việc thuyết pháp cho Phật tử tại gia. Phật giáo là một tôn giáotôn giáoniềm tin. Ở đại học người ta theo đuổi kiến thức; các sinh viên không đến để học hỏi về Phật giáo, để có niềm tinTrái lại, họ bắt đầu từ một điểm hoàn toàn đối lập với niềm tin. Họ phải đặt câu hỏi, kiểm tra, phải phê phán.

Vì cái nhìn khác biệt nầy, có một số tăng ni cho rằng họ đã mất niềm tin khi đến học ở đây. Chúng ta phải buông bỏ niềm tin kiểu ấy. Nếu chúng ta tin vào một điều mà ta đã hiểu sai, rồi cũng có lúc ta sẽ gặp ai đó sửa lại sự hiểu lầm nầy. Nếu ta tiếp tục tin rằng tà kiến của mình là đúng, thì điều nầy chẳng ích lợi gì cho cuộc đời của chúng ta. Những gì chúng ta đã tin, đã hiểu lúc trước, chúng ta cần phải tra đi hỏi lại thêm. Có thế, ta mới có thể đạt được chánh tín, niềm tin được hiểu biết một cách chính xác. Bằng cách tra vấn lại, ta khám phá ra được ý nghĩa chân chánh, và củng cố niềm tin thêm sâu đậm. Tôi kết hợp sự học hỏiniềm tin. Bằng cách nầy việc học hỏi đem lại nhiều lợi ích cho cuộc đời của tôi.

Tâm thứcchúng ta đang quán sát được biểu lộ qua hành động và lời nói. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta suy nghĩ, lắng nghe, quan sát. Bất cứ bạn làm gì, đó cũng là tu tập, vì nó sử dụngthể hiện tâm thức. Chỉ học sâu, hiểu rộng giáo lý của Phật thôi chưa đủ, chúng ta cần phải ứng dụng, sống trong pháp. Đó là sự thực hành của tâm thức.

VÒNG HOA

Kinh Hoa Nghiêm do đức Phật thuyết giảng. Qua kinh nầy, Đức Phật muốn nhắn nhủ điều gì với chúng ta? Đây là bài kinh nói về sự giác ngộ của Đức Phật. Điều nầy được biểu lộ qua ‘Vòng Hoa’ tức là Hoa Nghiêm (Avatamsaka); những đoá hoa là hoạt động của vị Bồ Tát.

Nói về một thế giới giác ngộ không phải là một điều dễ dàng. Rất khó diễn tả thế giới đó với những người chưa được giác ngộ, chưa từng thấy được thế giới nầy. Để cho dễ hiểu, thế giới nầy được trình bày qua những hoạt động của các vị Bồ Tát, những người đang chỉ cho chúng ta con đường để sống như một vị Phật.

Khi Đức Phật giác ngộ, Ngài chứng ngộ được sự tương quan lẫn nhau và các Phật tử từ đó đến giờ, đã nói lên điều nầy bằng nhiều cách khác nhau. Tông Hoa Nghiêm nói rằng mọi vật, mọi chúng sinh đều tương quan lẫn nhau, và là một. Vì thế đây là một thế giới không có sự phân biệt, chia rẽ.

‘Không có gì không phải là Phật Tỳ Lô Xá Na (Vairocana Buddha)’. Chúng ta là một phần trong thế giới của Phật Tỳ Lô Xá Na, thế giới ấy hiện đang ở tại nơi nầy. Khởi đầu, chúng tahiện thân của Phật Tỳ Lô Xá Na và vì lý do nầy chúng ta phải sống như một vị Phật, trong mọi cảnh đời. Theo quan niệm của Kinh Hoa Nghiêm, khi chúng ta nhận thức rốt ráo rằng mình là một vị Phật ngay hiện tại, thì không còn cần tu tập gì thêm nữa. Khi ấy chúng ta sống như một vị Phật và tâm của ta cũng là tâm Phật.

TẤT CẢ CHÚNG TA ĐỀU LÀ PHẬT

Trong truyền thống Thiền, đặc biệt là ở Hàn Quốc, người ta cho rằng sự giác ngộ, hay thế giới của Phật, không thể được diễn tả bằng lời; ngay khi bạn vừa buông lời, thì bạn đã sai rồi. Chỉ những bậc đã bước vào thế giới giác ngộ mới có thể biết nhau mà thôi.

Nhưng Kinh Hoa Nghiêm đã diễn tả thế giới giác ngộ, thế giới của Phật. Thế giới ấy thật là mỹ lệ mà với niềm tin, bạn có thể bước vào đấy. Cõi giác ngộ nầy không xa và cũng không phải là không đến được. Ngay hiện tại, bạn đã là Phật, nhưng không biết điều đó.

Nếu bạn đặt Đức Phật trên một bệ thờ thật cách xa bạn, thì bạn không thể sống như một Đức Phật. Hãy xoay lại và thức tỉnh; đấy mới là thực tập. Tâm thức tin tưởng hoàn toàn rằng bạn là Phật, đấy là tín tâm, theo quan điểm của Kinh Hoa Nghiêm. Hãy kiên quyết sống như một vị Phật bởi vì bạn là Phật.

Giáo lý của Đức Phật là để đạt được giác ngộ, nhưng các phương cách để giác ngộ đã thay đổi theo thời gian. Ngay thời Đức Phật còn tại thế và một thời gian sau đó, người ta tin rằng một chúng sanh bình thường không thể nào trở thành Phật, cho dù người đó có tu tập công phu đến đâu. Mà chỉ có thể đạt đến thế giới của các vị A-la-hán [các thánh giải thoát] và tự giải thoát chỉ đến cấp bậc nầy thôi. Chỉ duy nhất có một Đức Phật, đó là Thích Ca Mâu Ni mà thôi.

Quan niệm nầy đã thay đổi khi các trường phái Đại Thừa được phát triển, trong đó có phái Hoa Nghiêm. Phái Đại Thừa (Mahayana) cho rằng nếu chúng ta tu tập và sống như Đức Phật đã tu tập trong quá khứ, thì chúng ta cũng có thể trở thành Phật. Để nâng tâm bình thường lên thành tâm Phật là nâng tâm đến trình độ giác ngộ không có gì có thể vượt trội hơn.

Sự khác biệt giữa một chúng sinh và một vị Bồ Tátchúng sinh nghĩ họ không bao giờ có thể thành Phật và sống theo cách đó. Các vị Bồ Tát nghĩ rằng họ có thể tu tập giống như Đức Phật, trau dồi sự hoàn thiện [Ba-La-Mật] để trở thành Phật một lúc nào đó, cho dù ngay lúc nầy họ chưa là Phật. Nhưng thời gian đó cũng rất lâu, thường được coi là ba kiếp.

Tiếp đó là trường phái Một Xe (One Vehicle) cho rằng không cần thiết phải mất một thời gian dài để trở thành Phật; ta có thể trở thành Phật trong một kiếp sống nếu ta tu tập một cách miên mẫn. Vì lý do nầy, các vị đại sư đã nói: ‘Đừng uổng phí cuộc sống, đừng chờ đợi kiếp sống khác, đừng để việc lại cho kiếp sau mới làm, hãy tỉnh thức ngay trong kiếp sống nầy’. Trong kiếp sống nầy, được có thân người, ta có rất nhiều cơ hội và thời gian để giác ngộ. Nhiều người đã giác ngộ và chứng thực được Phật tánh của họ.

Tuy nhiên, theo Kinh Hoa Nghiêm: ‘Ngay hiện tại bạn đã là Phật’. Không cần thiết phải trở thành, phải đạt giác ngộ. Uisang Sunim, một vị đại sư Hàn Quốc của phái Hoa Nghiêm đã nói: ‘Từ rất lâu, chúng ta đã là Phật’.

Khi tôi mơ, trong giấc mơ tôi không biết là mình đang mơ. Chúng ta phải thức tỉnh từ giấc mơ để biết rằng chúng ta đã mơ. Giờ tôi là Phật, nhưng nếu tôi không nhận thức được điều đó, vì tôi không biết mình là Phật, để ‘điều khiển tâm’ trở nên ý thức rằng ta là Phật. Ngay tại nơi nầy, chúng ta có thể sống trên thiên đường hạnh phúc. Chúng ta có thể hiển lộ tất cả trí tuệlòng từ bi của một vị Phật.

Theo quan điểm của Hoa Nghiêm, tu tập để trở về nơi chúng ta xuất phát. Để sống theo bản thể của ta là để tung tăng trong thế giới giác ngộ. Thế giới giác ngộ nầy không xa, nó ở ngay trên Trái Đất nơi chân ta vẫn từng bước đi tới. 

SƯ TỬ VÀNG

‘Trong một pháp có vạn pháp’, Uisang Sunim đã nói. Ông lại thêm: ‘Trong vạn pháp có một pháp’. Tôi là một, những người khác là nhiều. Có sự liên hệ gì giữa một người và nhiều người? Đó là sự liên hệ khiến họ sống chịu đựng lẫn nhau.

Tuy nhiên, tánh cách của chúng sinh khiến họ không thể sống chịu đựng lẫn nhau. Một thế giới nơi mà mọi người sống, hòa hợp với nhauthế giới của Phật. Tất cả pháp hòa quyện lẫn nhau, chúng là một. Vì lý do đó có câu nói: ‘Sắc tức là không, không tức sắc’, có nghĩa là tất cả hiện hữu là một.

Cũng như sóng và nước là một. Cũng giống như làm một con sư tử bằng vàng. Hình dạng là sư tử, nhưng làm bằng vàng. Với vàng bạn có thể làm nhiều món trang sức, nhẫn, dây chuyền, hoa tai, vân vân… Chúng đều có nhiều dạng khác nhau, nhưng tất cả đều làm bằng vàng. Vàng không thay đổi, không khác biệt. Sư tử cũng y như thế.

Vì thế tất cả chúng sinh hình dạng có khác biệt, nhưng tất cả đều có cùng chung một Phật tánh. Phật tánh đó được ẩn giấu dưới các hình dạng, giống như trong hình dạng sư tử ẩn chứa vàng vậy. Hình dạng sư tửbản chất vàng là một, tạo nên một sư tử vàng.

Khi nhìn thấy con sư tử vàng, bạn có thể chỉ thấy một thứ, thường là hình dáng. Người sáng suốt thì sẽ nhìn vào thể chất vàng hơn là dạng sư tử, bởi vì sư tử thì không quan trọng lắm. Nhưng đa số có thể nói: ‘Hãy nhìn con sư tử kìa! Thật là lớn. Thật đáng sợ’. Một đứa trẻ thì sẽ buột miệng: ‘Hãy nhìn con sư tử kìa!’ chứ không nói: ‘Hãy nhìn tảng vàng kìa!’

Tuỳ theo mỗi người, họ sẽ thấy hoặc là sư tử hoặc là vàng. Nếu người chỉ thấy sư tử, thì sẽ không thấy vàng; nếu người thấy vàng thì sẽ không thấy sư tử. Nhưng trong thực tế, cả hai đều hiện hữu. Vì thế nên nói: ‘Chúng sinh thật sự là Phật.’

NHÌN THẤY MỌI KHÍA CẠNH

Nghe những điều nầy, bạn có thể bắt đầu chỉ nhìn thấy Phật mà không thấy chúng sinh. Bạn có thể tự hỏi: ‘Còn gì để làm nữa, tại sao tôi phải tụng niệm? Tôi là Phật. Hãy đến tôn thờ tôi. Tại sao tôi phải lễ bái ba lần trước các vị cao tăng và ni trưởng? Tại sao tôi phải hành Bồ Tát hạnh?’ Đó là do bạn chỉ nhìn thấy bản tánh ban đầu của mình là Phật. Bạn không thấy rằng đồng thời bạn cũng là chúng sinh.

Mặt khác, bạn có thể nói: ‘Tôi không thể làm được bất cứ việc gì, đừng đòi hỏi tôi điều gì’, đó là vì bạn chỉ thấy mình là chúng sinh. Bạn không thể thấy những tiềm năng vô hạn của Phật tánh mà từ ban đầu nó đã ẩn chứa trong tâm bạn. Vấn đề của cả hai phía là họ chỉ nhìn thấy có một mặt. Ta phải tập nhìn thấy hai mặt cùng lúc

Việc nầy vẫn thường xảy ra trong đời sống hàng ngày. Đọc báo, thường chúng ta chỉ biết một phía nào đó tờ báo nêu ra. Chúng ta phải tập nhìn phía sau các khái niệm để khám phá ra tất cả vấn đề. Chúng ta thường sống cách đó, chỉ nhìn một chiều. Giống như khi vác trên vai một tấm ván rộng, ta chỉ thấy có phân nữa cảnh vật.

Tương tự, ta có khuynh hướng chỉ thấy lỗi người mà không thấy lỗi mình. Khi đau đớn, ta cũng chỉ thấy nỗi đau của mình mà nói bệnh của một người khác không thấm vào đâu so với nỗi đau của mình. Khi người khác nói, ta chỉ bám theo lời nói, do đó thường đưa đến kết quả là xung đột. Ta phải xét xem phía sau lời nói tâm ý của người ta thế nào.

 Mạng Lưới Của Indra(8)

Theo Kinh Hoa Nghiêm, 3000 đại thiên có thể chứa đựng trong một nang lông của Phật. Mỗi nang lông có dung lượng giống nhau. Tất cả vũ trụ được chứa đựng trong một hạt bụi; tất cả là một. Khi thế giới của Phật hiển lộ, các thế giới khác cũng được hiển lộ đồng thời.

Cũng giống như mạng lưới châu báu của Indra. Trong mỗi gút có một hạt châu và mỗi hạt châu phản ảnh tất cả những hạt châu khác. Ngược lại, tất cả các châu báu phản ảnh một hạt châu. Không chỉ có thế, mà tất cả các phản chiếu qua lại của các hạt châu, cũng được phản chiếu trong cái vô cùng tận.

Khuôn mặt ta được cấu tạo bởi mắt, mũi, lỗ tai, vân vân. Từng phần, chúng đều có đặc điểm khác nhau. Nếu phối hợp hài hoà, ta có thể nói đó là một khuôn mặt đẹp, nhưng ta không thể nói rằng mũi đẹp hơn, hoặc mắt đẹp hơn. Hơn nữa, cả khuôn mặt có chức năng riêng của nó, và mỗi thành phần lại có chức năng riêng nữa. Thí dụ, mũi để ngửi, vân vân. Tuy nhiên khi bạn nhìn từng thành phần, thí dụ, đôi mắt, thì bạn không thể không thấy khuôn mặt. Thấy một thành phần, là bạn cũng thấy toàn bộ.

Theo Kinh Hoa Nghiêm có 10 điều hoàn thiện và theo Đại Thừa thì có sáu. Nếu có thể trau dồi tất cả các điều thì rất tốt. Tuy nhiên, nếu bạn có thể thực tập hoàn hảo về chỉ một điều, thì cũng giống như bạn đã thực tập tất cả. Qua một việc gì đó mà bạn có thể thực hiện hoàn hảo, thì bạn có thể khiến cả vũ trụ siêu phàm phát sinh.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17251)
Lễ nhạc là điều rất quan trọng trong đời sống con người. Vì lẽ, đời thiếu lễ, thì đời sẽ hỗn loạn; đời thiếu nhạc, thì đời sẽ khô khan... Thích Lệ Trang
(Xem: 12988)
Lễ lạy, tham bái, chiêm lễ các thánh tích của các bậc Tiên Thánh là một tập tục truyền thống lâu đời của một trong những nghi thức hành trì trong Phật Giáo, có nguồn gốc từ Ấn Độ.
(Xem: 18694)
Âm điệu thời hô chung của thầy đã chuyên chở một tâm hồn chánh niệm đầy lòng từ bi muốn cho chúng sanh được thoát khổ như lời bài kệ chuông.
(Xem: 13813)
Nghi thức tắm Phật có nguồn gốc ảnh hưởng từ tập tục cổ xưa của Ấn Độ nhưng được Phật Giáo tiếp nhận rồi lồng vào đó những quan niệm đạo đức Phật Giáo...
(Xem: 11622)
Trong hệ thống kiến trúc Tòng Lâm Phật Giáo Bắc Truyền lấy Đại Điện làm trung tâm, Đại Điện còn được xưng là Chánh Điện, hay Đại Hùng Bảo Điện...
(Xem: 44285)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 15814)
Khi một người không tái phạm lỗi lầm lần thứ hai, chúng ta đã sám hối quá khứ. Chúng ta không những phải sám hối tội nghiệp đã biết, càng phải sám hối cho những tội nghiệp không biết...
(Xem: 68438)
Kim ô tợ tiễn, ngọc thố như thoa, tưởng cốt nhục dĩ phân ly, đỗ anh hồn nhi hà tại. HT Thích Bích Liên
(Xem: 28470)
Những Bài Tán Trạo Theo Nghi Thức Phật Giáo Miền Trung
(Xem: 66804)
Các Bài Tán Xấp theo Nghi Lễ Phật Giáo Miền Trung
(Xem: 84088)
Những Bài Tán Rơi Theo Nghi Thức Phật Giáo Miền Trung
(Xem: 18913)
Nghi lễ là cái được sáng tạo sau khi đức Phật nhập diệt, mà một trong những mục tiêuthể hiện sự kính ngưỡng đối với Đức Phậtgiáo pháp của Ngài, thông qua những hình thức cụ thể.
(Xem: 13738)
Nói đến Tăng phục Phật Giáo trước tiên chúng ta nên tìm hiểu về những lý do căn bản, ý nghĩa thậm thâm của Tăng phục.
(Xem: 13604)
Thông thường, truyền thọ giới pháp Bồ tát Du già, cần phải thỉnh ba vị Giới Sư làm Hòa thượng truyền giới, tức là: Đắc giới Hòa thượng (Đắc Giới Sư, đại diện cho Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni)...
(Xem: 85221)
Nghi lễvấn đề không cố định, nên tuy soạn thế này, nhưng quý vị cũng tùy thời, tùy xứ mà linh động...
(Xem: 18797)
Thân hình chúng ta như hạt sương trắng buổi sáng. Mạng chúng ta cũng mong manh như hạt sương buổi sáng... Trần Văn Khê
(Xem: 13350)
Các thể điệu hành trì của nghi lễ Phật giáo Việt nam rất phong phú, ở đây chúng ta chỉ lượt qua các thể điệu chính như: xướng, hô, kệ, thán, độc, tán, tụng, trì, niệm.
(Xem: 9777)
Lễ cung nghinh thỉnh rước của Phật Giáo có từ thời Đức Phật còn tại thế, thường thấy nghi chép trong các bộ kinh Đại thừa, khởi nguồn từ việc chư Thiên và các vị vua Ấn Độ...
(Xem: 10475)
Dâng hương cúng Phật, thắp hương cúng Phật, xông hương cúng Phật, là nét văn hoá đặc trưng của Tăng Tín đồ Phật Giáo Bắc Truyền. Người Đông phương khi nhắc đến đi chùa lễ Phật...
(Xem: 17386)
Nay đệ tử ( Họ tên ... pháp danh ...) trì tụng Thần Chú, xưng tán Hồng Danh. Nguyện xin mười phương Thường Trụ TAM BẢO, Tây Phương Cực Lạc Giáo Chủ A DI ĐÀ PHẬT...
(Xem: 226816)
Tuyển Tập Các Bài Phục Nguyện trong hai thời công phu sáng chiều - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 16660)
Phật bảo sáng vô cùng, Đã từng vô lượng kiếp thành công, Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông, Sáng rực đỉnh Linh Phong
(Xem: 29065)
Chẩn tế cô hồn theo cung bậc nghi lễ Huế, do HT Thích Từ Phương làm sám chủ
(Xem: 27666)
Trong các lễ cúng thí Cô hồn, Trai đàn Chẩn tế được tổ chức quy mô nhất. Nó bao hàm cả hai khía cạnh văn chương và triết lý, gần như tất cả tinh hoa của tư tưởngvăn học Phật Giáo Đại thừa Mật Tông được gói trọn vào đây.
(Xem: 13351)
Từ xưa đến nay, Nghi lễ Phật giáo đã hội nhập, luôn gắn liền với nền văn hóa dân tộc Việt Nam một cách hài hòa như nước với sữa. Trải dài .... ! xuyên suốt qua các thời kỳ lịch sử thăng trầm thịnh suy của đất nước.
(Xem: 15340)
Nghi thức này được sử dụng trong các dịp xuống tóc, thiết lập bàn thờ, đàn tràng, cúng nhà mới, cúng đất đai, khai trương cửa hàng, văn phòng, v.v...
(Xem: 9619)
Nghi thức tụng giới cho thiếu nhi gồm có Ba Phép Quay Về Nương Tựa và Hai Lời Hứa, có thể được cử hành trước Nghi Thức Tụng Năm Giới.
(Xem: 75783)
Lễ an vị Phật tại tư gia, bàn thờ Phật phải đặt chính giữa nhà, bàn thờ linh phải đặt hai bên hoặc sau lưng Phật, nếu nhà lầu, thì Phật thờ tầng trên. Trước khi thờ Phật trong nhà phải trang hoàng sạch sẽ...
(Xem: 10601)
Hộ niệmniệm Phật cầu nguyện cho một bệnh nhân khi nhận thấy thuốc chữa trị không còn tác dụng đối với người ấy nữa, khi mà người bệnh sắp qua đời.
(Xem: 9452)
Pháp Hội Thí Vô Giá có nguồn gốc từ Ấn Độ gọi là “Vô Giá Đại Hội” còn gọi là “Ngũ Niên Nhất Hội”, “Ngũ Niên Công Đức Hội”, “Ngũ Tuế Hội”.
(Xem: 10420)
Chiếc y của người xuất gia Phật giáo biểu trưng cho sự thanh bần, giản đơn, và quan trong hơn cả là nó nối kết người mặc với vị thầy bổn sư của mình - Đức Phật...
(Xem: 10093)
Kim cương thừa (vajrayāna) hay Mật tông xuất hiện trong khoảng thế kỷ thứ 4 tại Bắc Ấn Độ, trở nên hưng thịnh từ đầu thế kỷ thứ 6, đến giữa thế kỷ thứ 8 thì hình thành nên một truyền thống lớn mạnh...
(Xem: 10718)
Nghi lễ Phật giáo cũng có hai phần lễ và nhạc, tuỳ theo truyền thống văn hoá nghệ thuật của mỗi miền, mỗi vùng mà phần lễ nhạc Phật giáo sẽ ảnh hưởng và biểu hiện theo truyền thống của vùng...
(Xem: 19245)
Trong nhân gian, ai mà lại không có Mẹ. Từ người làm vua cho đến kẻ cùng đinh hạ tiện tất thảy đều do Mẹ sinh ra và nuôi lớn.
(Xem: 10174)
Lạy hay còn gọi là Lễ Bái, là nghi thức rất phổ thông trong dân gian, mang ý nghĩa bày tỏ lòng biết ơn và niềm tôn kính đến với các đấng thần linh, các bậc tiên hiền có công khai phá giang sơn...
(Xem: 13068)
Kính lạy đức Bồ Tát Quán Thế Âm, chúng con xin học theo hạnh Ngài, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ. Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu.
(Xem: 60177)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27631)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68761)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 64130)
Cúng dường Thanh tịnh Pháp Thân Tì Lô Gía Na Phật. Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật. Thiên Bá Ức Hóa Thân Thích Ca Mâu Ni Phật.
(Xem: 25541)
Những bài kệ canh dưới đây áp dụng vào mùa An Cư, Kiết Hạ hằng năm của của Chư Tăng, hoặc trong trường hợp khai Đại Giới Đàn của xưa và nay.
(Xem: 15028)
Bản Sưu Tập các Bài Tán nầy được trích trong các cổ bản Tán Sám, Nghi Thức, Hành Trì viết tay bằng hán tự và trong những bản Nghi Lễ bằng quốc ngữ.
(Xem: 14303)
Hương vân nhi bố Thánh đức chiêu chương Bồ đề tâm quảng mạc năng lường Xúc xứ phóng hào quang
(Xem: 14365)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 7834)
Chuông, trống được đưa vào PG từ khi Đức Phật còn sanh tiền với mục đích tập hợp chúng Tăng. Về sau, chuông, trống, mõ được dùng trong các nghi lễ để trang nghiêm đạo tràng...
(Xem: 7148)
Cà sabiểu tượng của hạnh khiêm cung, nhu hòa, nhẫn nhục. Đức khiêm cung, nhu hòa, nhẫn nhục trong Phật giáo liên hệ mật thiết với tinh thần bình đẳng...
(Xem: 6809)
Âm nhạc Phật giáo có bước chuyển biến mới trong những thập niên đầu của thế kỷ hai mươi, khi nền âm nhạc Tây phương thâm nhậptác động vào nền âm nhạc truyền thống...
(Xem: 16288)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 14114)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 8380)
Nghi lễ sẽ tạo thành không khí lễ nghĩa, làm cho con người có tập quán đạo đức hướng về điều tốt điều phải một cách tự nhiên. Ở chỗ có mồ mả thì có cái không khí bi ai...
(Xem: 9009)
Tán tụng là một bộ môn nghệ thuật âm nhạc quan trọng trong hệ thống văn hóa nghệ thuật của Phật Giáo Bắc Truyền.
(Xem: 8058)
Trong ba ngày rằm nầy, người ta còn gọi các danh từ khác nữa như: Thượng nguơn, trung nguơn và hạ nguơn, hay: Thượng nguyên, trung nguyênhạ nguyên.
(Xem: 9059)
Nghi lễ biểu hiện lòng thành kính đối với Tam Bảo: Tín đồ luôn có một niềm tin sâu sắc và thành kính đối với Tam Bảo. Niềm tin đó tạo sự chuyển hóa trong nội tâm...
(Xem: 13931)
Pháp thân tỏa sáng buổi ban mai Tĩnh tọa lòng an miệng mỉm cười Ngày mới nguyện đi trong tỉnh thức Mặt trời trí tuệ rạng muôn nơi.
(Xem: 16764)
Khể thủ nhất thiết xuất thế gian Tam giới tối tôn công đức hải Trí giả năng thiêu phiền não cấu Chánh giác ngã kim quy mạng lễ
(Xem: 11863)
Nam mô nhất tâm phụng thỉnh, lạc bang giáo chủ, y chánh trang nghiêm, tứ thập bát nguyện độ chúng sanh, cữu phẩm liên đài mông thát hóa
(Xem: 17934)
Phật bảo sáng vô cùng Đã từng vô lượng kiếp thành công Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông Sáng rực đỉnh Linh Phong
(Xem: 14880)
Từng nghe, pháp không tự khởi, nhờ cảnh mới sanh, đạo chẳng hư hành, gặp duyên liền ứng. Hôm nay, hoa đàn la liệt, Phật sự xiển dương, hương xông triện báu
(Xem: 75264)
Trong Đạo Phật, lòng từ bi được đưa lên hàng đầu. vì thương tưởng đến loài chúng sanh bị đói khát, đau khổđức Phật và chư Tổ đã dạy phương Pháp bố thí cho loài Ngạ quỷ, súc sanh...
(Xem: 11646)
Thiền sư Quảng Nghiêm (1121 - 1191) người huyện Ðan Phượng, tỉnh Hà Tây. Ông tu ở chùa Thánh Ân thuộc huyện Siêu Loại (nay là Thuận Thành, Bắc Ninh).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant