Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần IV: Niềm tin theo đạo Phật

10 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11310)
Phần IV: Niềm tin theo đạo Phật

ĐẠO PHẬT XƯA VÀ NAY

Thích Hạnh Bình

PHẦN 4

NIỀM TIN TRONG ĐẠO PHẬT 

 

Niềm tin hay đức tintrạng thái tâm lý, nó thường xuyên xuất hiện trong cuộc sống của mọi người, không phải chỉ giới hạn ở những người có niềm tin đối với tôn giáo. Như chúng ta nói, tôi tin tưởng sẽ đậu vào kỳ thi tới, tôi tin tưởng vào khả năng của bạn, tôi tin tưởng công việc làm ăn này, tôi tin tưởng đất nước sẽ phát triển.v.v… đây là những câu nói rất bình thường và thường xuất hiện trong đời sống hằng ngày của mọi người chúng ta, nó hoàn toàn không mang ý nghĩa xấu, và nó luôn luôn gắn chặt với đời sống con người, khi nào con người chưa đủ yếu tố để xác định kết quả của sự việc ở tương lai thì niềm tin xuất hiện, nó làm cơ sở để thúc đẩy thực thi công việc. Như vậy, niềm tin luôn luôn có mặt ở trong mọi người, không chỉ giới hạn trong tôn giáo.

Thế nhưng, có một số người hiểu nhầm cho rằng, lòng tin chỉ có ở trong tôn giáo, và được hiểu nó như là sự trở ngại cho sự tiến bộ xã hội,để rồi có cái nhìn không mấy thiện cảm với tôn giáo, điều đó có thể tạo thành sự xung đột giữa gia đìnhxã hội. Trên thực tế, bất cứ ai cũng có niềm tin, dù bạn là ai trong xã hội, nếu con người không có đức tin với cuộc sống và tôn giáo thì đó là căn nguyên của mọi tệ nạn xã hội. Chúng ta cũng thừa nhận rằng, trong hoạt động của tôn giáo có những hiện tượng mê tín dị đoan, nhưng không phải vì thấy một vài hiện tượng mê tín mang lại hậu quả xấu, từ đó vội vã đi đến kết luận cho rằng tôn giáomê tín, là xấu xa. Tôi cho rằng, đây là cách suy nghĩ một chiều và duy ý chí, thiếu thiện cảm.

Dù trong sinh hoạt của Phật giáo có những hiện tượng này, nhưng bản thân của nền giáo lý Phật giáo không như vậy, luôn luôn đề cao vai trò chánh tri chánh kiến, nhất là Phật giáo Nguyên thủy.

Mặt khác, niềm tin hay đức tin vốn là đặc tính tốt của con người, là biểu hiện niềm hy vọngước mơ của con người, là động lực thúc đẩy con người vươn tới một cuộc sống tốt đẹp, muốn thay đổi cuộc sống không như ý của mình. Nếu con người đánh mất niềm tin, điều đó đồng nghĩa đánh mất sự nỗ lực ý chíhy vọng, khi niềm tinhy vọng không còn nữa, tâm lý bi quan chán đời xuất hiện. Có thể nói đó là sự nguy hiểm, nó có thể dẫn đến sự tự sát, hoặc là nguyên nhân gây bất an cho gia đình và những hiện tượng xấu cho xã hội.

Tôi cũng xin xác nhận rằng, không một vấn đề gì không có mặt trái của nó. Ở đây, mặt trái của niềm tin là sự ‘mê mờ’, trong trường hợp này chúng ta gọi là ‘mê tín’, tức là niềm tin không có cơ sở.

Như vậy, nguồn gốc của niềm tin xuất hiện từ đâu? Để vấn đề được dễ hiểu, ở đây chúng ta lấy một trường hợp cụ thể thường xảy ra trong cuộc sống làm đối tượng để tìm hiểu. Như có người đến rủ bạn hùn vốn làm một công việc gì đó, người đó trình bày kế hoạch làm ăn theo một phương thức nào đó. Căn cứ những dữ liệu được trình bày, cộng thêm sự đánh giá riêng của mình, bạn chính là người quyết định nên hay không nên hợp tác. Sự quyết định đó hoàn toàn dựa vào suy luận phán đoán của cá nhân, đơn thuần chỉ là sự suy diễn của lý trí, chưa chắc gì đúng với thực tế. Sự không chắc chắn này, chúng ta chỉ có thể nói: tôi quyết định hợp tác với bạn, vì tôi tin rằng kế hoạch làm ăn của chúng ta tốt. Thật ra, trong lúc nói những lời này, công việc làm vẫn chưa có kết quả thực tế, do vậy niềm tin xuất hiện và làm động lực thúc đẩy công việc. Qua câu chuyện này, gợi ý cho chúng ta thấy rõ nguyên nhân và sự hình thành của niềm tin chính là trạng thái tâm lý được hình thành xuất phát từ những dữ kiện mà nó nắm bắt được trong hiện tại, để quyết đoán một vấn đề thuộc về tương lai, như vậy là sự quyết đoán không mấy chắc chắn, vì nhân ở hiện tại mà quả của nó lại ở tương lai, cho nên niềm tin xuất hiện chỉ có nhiệm vụ thúc đẩy công việc.

Như vậy, mặt phải của niềm tin là sự cổ vũ tinh thần, là sự trợ lực hữu ích cho cuộc sống, nó là chất liệu tạo sự ổn định tâm lý, khi con người phải đối đầu với những công việc vượt ngoài tầm kiểm soát của chính mình. Ví dụ, một em bé muốn qua chiếc cầu tre, nếu như bên cạnh em có mẹ hay người thân, em cảm thấy rất an toàn, không sợ hãi khi qua cầu. Nhưng nếu như không có mẹ bên cạnh, em sẽ cảm thấy sợ hãi khi qua cầu. Tại sao thế? Trên thực tế, người mẹ không giúp gì cho em, em vẫn tự đi một mình, nhưng tại sao lòng em lại xuất hiện hai sự kiện trái ngược nhau? Ở đây, câu trả lời đơn giản là có niềm tin hay không có niềm tin. Sự hiện diện của mẹ tạo cho em có niềm tin hơn, do vậy cảm thấy không có cảm giác sợ hãi, và ngược lại, vì không có mẹ do vậy em cảm thấy mất niềm tin chính mình, tâm lý sợ hãi xuất phát từ thiếu niềm tin. Một ví dụ khác, khi cầu thủ trên sân cỏ nghe trên cầu trường vang dậy tiếng vỗ tay cỗ vũ, tự nhiên các cầu thủ trở nên thi đấu hào hứng và hay hơn, và ngược lại cũng thế. Trên thực tế, khán giả không giúp ích gì cho cầu thủ, chỉ là những tiếng vỗ tay cổ vũ tinh thần từ trên khán đài, nhưng tại sao cách thi đấu lại bình tĩnh hơn và tốt hơn? Đó chính là cầu thủ đã lấy lại niềm tin chính mình. Sự cổ vũ xuất hiện dẫn đến niềm tin xuất hiện, niềm tin xuất hiệnđiều kiện tốt nhất cho mọi sự thành công. Tất nhiên sự thành công bắt nguồn từ niềm tin có cơ sở, không phải là sự mê tín. Ở đây tôi gọi niềm tin có cơ sở là niềm tin được xuất phát từ những sự kiện có thật, không phải là sự mơ hồ hay ảo tưởng, không thể tin vào bình vôi ông táo có thể cho ta tiền bạc hay hạnh phúc, hoặc chúng ta sống với cuộc sống lười biếng buông thả thiếu hiểu biết, nhưng lại tin tưởng vào đấng thần linh, Thượng đế (God) hay Phật (Buddha), từ đó mong muốn có được hạnh phúcgiàu có. Điều đó thật khó xảy ra, hay nói đúng hơn là không thể có được, vì hạnh phúc chỉ đến khi nào chúng tahiểu biết, giàu sang chỉ đến khi nào hội đủ điều kiện của nó. Niềm tin như vậy, được gọi là niềm tin xuất phát từ sự mơ hồ ảo tưởng hay còn gọi là mê tín. Bất cứ niềm tin nào xuất phát từ sự tối tăm, thiếu hiểu biết, niềm tin đó đạo Phật không khích lệ, ngược lại thường bị đức Phật quở trách.

Đề cập niềm tin trong đạo Phật là đề cập đến một niềm tin trong sáng, có xu thế hướng về đời sống giác ngộan lạc, đây là mục đích đức Phật xây dựng niềm tin. Chúng ta không nên tùy tiện giải thích niềm tin trong đạo Phật theo cảm tính, không căn cứ vào Phật pháp, chúng ta cũng không nên vì mục đích riêng tư hay sự giới hạn về sự hiểu biết của mình, bóp méo niềm tin trong sáng đã được đức Phật trình bày trong các kinh điển, điều đó́ không những có sự nguy hại đến bản thân mình mà còn nguy hại cho người khác. Để tránh trường hợp này, ở đây theo tôi cách làm hay nhất, trước hết chúng ta nên căn cứ vào lời Phật dạy từ trong các kinh điển, sau đó chúng ta tiến hành giải thích và phân tích để tìm hiểu ý nghĩa niềm tin trong đạo Phật đã được đức Phật giải thích như thế nào.

Như chúng ta được biết trong Kinh điển A hàm (àgama) hay Niàya, đức Phật thường đề cập và nhắc nhở các vị Tỷ kheo cần phải tu tập 37 phẩm trợ đạo, và nó được xem nhưphương pháp tu tập cơ bản của đạo Phật Nguyên thủy hoặc khuyên các vị cưtại gia tin Tam bảo: Phật Pháp và Tăng. 37 phẩm trợ đạo, bao gồm: 4 niệm xứ, 4 chánh cần, 4 như ý túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác chi (Bồ đề phần) và 8 thánh đạo. Trong đó, 5 căn là tiến trình tu tậpliên quan đến lòng tin. Tiến trình đó bao gồm: tín căn, tấn căn, niệm căn, định căntuệ căn. Tiến trình tu tập này gồm 5 giai đoạn, tín căn là giai đoạn đầu tiên. Như vậy tín căný nghĩa gì trong quá trình tu tập này?

Trước khi tìm hiểu chữ ‘tín’ hay ‘tín căn’ trong Phật giáo, chúng ta cần xác định một vấn đề cơ bản là niềm tin được đức Phật đặt nó trong quá trình tu tập bao gồm 5 căn, không phải nói trong trường hợp đơn lẻ, chỉ có tin. Nói một cách dễ hiểu hơn, đức Phật khuyên mọi người nên xây dựng niềm tin là muốn nói đến sự giác ngộgiải thoát, vì sự giác ngộgiải thoát này không phải là cái tự nhiên có, hay một đấng thần linh nào ban bố cho, cũng không thể nói mình là đệ tử xuất gia hay tại gia của Ngài, do vậy ngài sẽ cho sự giải thoát giác ngộ đó. Nói một cách chính xác, sự giải thoát giác ngộ có được bắt nguồn từ vai trò của ‘trí tuệ’; Trí tuệ có được nhờ sự tu tập Thiền định. Thiền định phát sinh nhờ cuộc sống có chánh niệm. Niệm có được nhờ sự nỗ lực (tinh tấn). Thành tựu sự nỗ lực nhờ vào cuộc sống có niềm tin. Như vậy, ‘tín’ là cơ sở để hình thành tinh tấn, chánh niệm, thiền địnhtrí tuệ, nếu không có tín thì tinh tấn cũng không có, niệm, định và tuệ cũng không có. Tiến trình này gợi ý cho chúng ta khẳng định ý nghĩa chữ tín trong Phật giáo, chỉ có giá trị làm nền tảng cho sự giải thoát giác ngộ, luôn mang ý nghĩa hướng hành động đến trí tuệ, do vậy, chúng ta không nên tách chữ tín ra khỏi quá trình tu tập này giải thích. Ngược lại, nếu ta hiểu chữ tín một cách đơn lẻ, chữ tín mang ý nghĩa như là sự phó thác. Khái niệm đó không đồng nghĩa niềm tin mà đã được đức Phật đề cập trong kinh điển, ngược lại nó trở thành một khái niệm mang ý nghĩa ‘mê tín’. Để xác minh về ý nghĩa này, chúng ta cần nắm rõ câu kinh được đức Phật giảng trong “Kinh Tăng Chi Bộ” như sau:

Này các Tỷ kheo, có hai hạng người xuyên tạc Như lai. Thế nào là hai? Người độc ác với tâm đầy sân hận hay người có lòng tin với tà kiến. Đây là hai hạng người xuyên tạc Như lai.[1]

Qua nội dung và ý nghĩa của đoạn kinh vừa dẫn trên, thật rõ ràng cho chúng ta thấy, đức Phật xác định: Niềm tin được xây dựng với tâm tà kiến là sự nhận thức không đúng, đó là sự xuyên tạc, không phải là tán thán Như Lai. Đây chính là ý nghĩa câu: ‘Tin ta mà không hiểu ta là hủy báng ta’. Tại sao tin tưởng đức Phật lại trở thành người hủy báng đức Phật? Chính là niềm tin được xây dựng trên tà kiến, là sự hiểu biết không đúng về Ngài. Như đức Phật khuyên chúng ta nên dùng tâm của chính mình ‘niệm Phật’ để dứt trừ các phiền não, không phải chỉ dừng lại ở miệng niệm danh hiệu Phật mà tâm thì xấu xa độc ác. ‘Niệm Phật’ là nghĩ nhớ đến tính giác ngộ của Phật, muốn trở lại sống với sự giác ngộ đó. Niệm Phật còn có ý nghĩa, xem Ngài như là tấm gương sáng để nhắc nhở chúng ta sống trong sự giác ngộ, tránh xa những hành vi sai lầm tội ác, niệm Phật không phải chỉ có ý nghĩa tay lần tràng hạt, miệng niệm danh hiệu Phật là đủ. Như vậy, ý nghĩa pháp môn niệm Phật là sống trong sự giác ngộ, có ý nghĩa rất trong sáng, giúp cho con người sống có hạnh phúcan lạc. Từ ý nghĩa này, pháp môn niệm Phật không làm cản trở cho công việc làm hằng ngày của chúng ta mà nó còn giúp cho kết quả công việc có hiệu quả hơn.

Không hiểu ý nghĩa lời Phật dạy, nhưng chúng ta lại làm công tác gọi là ‘hoằng dương Phật pháp’, vô tình chúng ta giới thiệu sai về ngài, như vậy chúng ta là người hủy báng xuyên tạc đức Phật. Ngược lại, nếu chúng ta tin đức Phật ngang qua sự hiểu biết và thấy rõ giá trị lời giảng dạy có lợi ích của Ngài, sau khi thấy rõ, chúng ta tin và thực tập theo, niềm tin này được xuất phát từ sự hiểu biết không phải là không biết, từ chuyên môn trong nhà Phật thường dùng là 'tịnh tín' là niềm tin trong sạch. Như vậy, ý nghĩa chữ ‘tín’ trong đạo Phật không mang ý nghĩa mê tín.

Liên quan đến ý nghĩa chữ tín, trong “Kinh Trung Bộ” bài ‘Kinh Sư Tử Hống’[2] đức Phật đã phân tích sự khác biệt giữa niềm tin giữa đạo Phậtngoại đạo rất rõ ràng.

Này các Tỷ kheo, nếu dị đạo cũng lại hỏi: 'Này chư hiền, chúng tôi cũng tin đấng Tôn sư, tức Tôn sư của chúng tôi; tin pháp tức pháp chúng tôi...Này chư Hiền, giữa hai lời nói này của Sa môn Cù đàmchúng tôi có hơn gì? Có ý gì? Có sai khác gì chăng?

Này các Tỷ kheo, các thầy nên hỏi dị đạo như thế vầy: 'Này chư Hiền, cứu cánh chỉ có một hay cứu cánh có nhiều?

Này các Tỷ kheo, nếu dị đạo trả lời như vầy: 'Này chư Hiền, cứu cánh chỉ có một, cứu cánh không có nhiều'.

Này các Tỷ kheo, các thầy hỏi tiếp dị đạo: 'Này chư Hiền, người có dục (có sân, có si) mà được cứu cánh, hay người không có dục (không có sân, không có si) mới được cứu cánh?'

Này các Tỷ kheo, nếu dị đạo trả lời như vầy: 'Này chư Hiền, người không có dục (không có sân, không có si) mới được cứu cánh, không phải người có dục (có sân, có si) mà được cứu cánh"[3].

Qua đoạn kinh vừa dẫn trên, chúng ta thấy điểm trọng tâmđức Phật đề cập là lòng tinmục đích, hướng đến sự giác ngộgiải thoát, tức là niềm tin có mối quan hệ thân thiết đến sự đoạn trừ tham sân và si, không phải là niềm tin làm tăng trưởng lòng ngu si. Nếu như chúng ta cho rằng mục đích của mọi tôn giáo là mang lại sự bình angiải thoát cho con người, thì như vậy các tôn giáo cùng có chung một mục đích. Nhưng ở đây chúng ta cần chú ý điểm quan trọng, đức Phật cho rằng, sự bình angiải thoát chỉ xuất hiện từ lòng không tham không sân và không si, không phải là lòng có tham, có sân và có si. Nếu như chúng ta chấp nhận quan điểm này là đúng thì đạo Phậttôn giáo mang lại bình angiải thoát, vì quan điểm của đức Phật chủ trương diệt trừ tham sân và si. Còn các tôn giáo khác có chủ trương như thế nào? Câu trả lời xin nhường lại cho giới chuyên môn của các tôn giáo ấy. Nếu như các tôn giáoquan niệm đức tin không giống với đạo Phật thì đây chính là sự khác biệt giữa đạo Phật và các tôn giáo khác về ‘niềm tin’. Đây chính là quan điểm cơ bản về niềm tin trong đạo Phật.

Từ ý nghĩa này, gợi ý cho chúng ta thấy rằng trước khi chúng ta làm việc gì, hay tin vào việc gì, điều quan trọng nên tìm hiểu vấn đề đó có giúp ích gì cho cuộc sống của chính bản thân mình và xã hội không, nếu như có ích lợi thì đó là việc cần phải làm[4] và cần được tin tưởng. Ngược lại, nếu nó không giúp ích gì cho bản thân, còn cản trở cho công ăn việc làm hằng ngày, gây phiền não cho gia đìnhxã hội, thì đó là việc mà đức Phật khuyên chúng ta không nên làm[5], không nên tin tưởng vào việc ấy. Có lẽ đây chính là lý do đức Phật mạnh dạn phê phán những niềm tin không hợp lý của người dân Ấn độ lúc bấy giờ. Như trong “Kinh Tăng Chi Bộđức Phật cặn kẽ giải thích như sau:

Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì nghe theo truyền thống; chớ có tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin vì đúng theo lập luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này Kàlàmà khi nào tự mình biết rõ như sau: Các pháp này là bất thiện, các pháp này là có tội; các pháp này bị các người có trí chỉ trích; các pháp này nếu thực hiệnchấp nhận đưa đến bất hạnh và khổ đau, thời này Kàlàmà hãy từ bỏ chúng.[6]

đây, chúng ta thử đặt vấn đề, tại sao đức Phật nêu ra những trường hợp này? Để cho vấn đề được rõ ràng, chúng ta cần phải lội ngược dòng lịch sử, đến thời kỳ của đức Phật, cách đây hơn 2.500 năm về trước để tìm hiểu về nền văn hóa Ấn Độ, tôn giáo như thế nào, từ đó chúng ta mới có cơ sở để tìm hiểu phân tích vấn đềchúng ta đang thảo luận.

Ấn Độ là một đất nước huyền bí, đa thần giáo, là nơi sản sinh nhiều tôn giáo lớn. Phật giáo cũng được xuất hiện từ đất nước này. Nhưng quan điểm tư tưởng cũng như phương pháp tu tập của Phật giáo nhất là Phật giáo Nguyên thủy không giống như những tôn giáo khác. Phật giáo không đặt nặng về niềm tin, với chủ trương lấy trí tuệ (pañña) làm ngọn đuốc soi đường, lấy từ bi làm phương tiện độ sinh. Nếu Phật giáo có đề cập đến niềm tin đi chăng nữa, Phật giáo xem niềm tin như là cửa ngõ vào đạo, là phương tiện giúp cho con người thành đạt sự giác ngộgiải thoát, không xem niềm tin như là sự cứu cánh. Một điển hình cụ thể là trong kinh tạng Pàli hay A Hàm, trong đó có rất nhiều kinh đức Phật bác bỏ những tập tục tế tự, tín ngưỡng vô ích[7], nêu cao tinh thần chánh tri chánh kiến. Phải chăng đó là lý do Phật giáo không được đại đa số người dân Ấn Độ mến chuộng? Phải chăng đây chính là lý do Phật giáo Tiểu thừa dần dần chuyển thành Phật giáo Đại thừa, vì nếu chúng ta nghiên cứu hệ thống kinh điển Phật giáo Đại thừa, thì chúng ta thấy ở trong đó Phật giáo Đại thừa đã vay mượn khá nhiều những hình thức tín ngưỡng văn hóa truyền thống của Ấn độ, với mục đích để truyền tải tư tưởng của đức Phật đến với xã hội[8]? Theo tôi, đây là điểm đáng chú ý và nghiên cứu.

Trở lại vấn đềchúng ta đang thảo luận trong bối cảnh của một xã hội đa thần giáo, nặng nề về nghi thứctín ngưỡng của người dân Ấn, những người Bà la môn đã lý giải những vấn đề con ngườithế giớicon người đang sống, bằng những câu chuyện thần thoại, vượt qua sự hiểu biết của con người. Cách giải thích này, vô tình đã tạo thành thói quen, có ảnh hưởng đến đời sống xã hội, nó là yếu tố cơ bản để hình thành bản sắc của người dân, làm mất đi đặc tính suy tư đắn đo suy nghĩ vốn có của con người. Thế thì, khi con người đứng trước một xã hội phức tạp, trong thiên nhiên có nhiều hiện tượng bí ẩn, ngược lại lúc bấy giờ ánh sáng văn minh của khoa học kỹ thuật lại chưa phát triển, con người tự mình đánh mất khả năng suy tư phán đoán, bên cạnh đó truyền thống tôn giáo của Ấn Độ lại đề cao thần thánh, khi đó con người chỉ biết tin theo và làm theo tiếng nói của tôn giáo, đó là những niềm tin xuất phát từ ‘truyền thuyết’, ‘truyền thống’, ‘lời đồn’,̀ ‘kinh điển truyền tụng’ hay là những loại ‘lý luận siêu hình’.v.v…như đã được đề cập, họ không cần suy nghĩ những gì mà họ tin tưởng và làm theo đó sự lợi ích gì cho bản thân họ, cứ ngoan ngoãn tin theo và làm theo, bất chấp tất cả. Thật ra thái độ ‘bất chấp’ là một thái độ sai lầm, vì đặc tính chung của con ngườitham sống sợ chết, ham vui tránh khổ. Thế thì ở đây có vấn đề mâu thuẫn, luật nhân quả cho chúng ta thấy, nhân như thế nào thì quả như thế ấy. Có nghĩa là cái nhân mà chúng ta tạo ra là vô minh, tức là tin theo những điều mà chúng ta hoàn toàn không biết gì về kết quả của nó, thì cái quả của nó không thể mang lại cho ta niềm vui và hạnh phúc mà phải là sự khổ đau. Nếu như quan điểm này là đúng, thái độ ‘bất chấp’ không cần biết về điều mà mình tin tưởng đó, nếu chúng ta kiểm traxem xét lại động cơ chúng ta đến với tôn giáo, phải chăng là sự mâu thuẫn. Đây chính là lý do tại sao đức Phật khuyên, trước khi chúng ta tin theo và làm theo điều gì, điều trước tiên và quan trọng hơn cả là chúng ta cần xem xét điều mà mình tin mình sắp làm đó có mang lại sự bình anhạnh phúc cho chúng tahiện tại và tương lai hay không. Nếu như điều mà ta tin đó có gì đó còn mù mờ thì chúng ta cần tìm hiểu, không nên vội vàng tin theo hay chê bai một cách vô lý.

Tại sao đạo Phật là một tôn giáo nhưng đạo Phật lại không đề cao vai trò của niềm tin? Trước nhất, ở đây chúng ta nên hiểu rằng, đạo Phật không khích lệ người Phật tửniềm tin mù quáng, không phải đạo Phật bài xích niềm tin, vì đạo Phật xem niềm tin như là sự trợ lực, là phương tiện để thành đạt sự cứu cánh - giải thoát. Nhưng ở đây, chúng ta cần hiểu rằng mục đích của phương tiện là để đưa đến cứu cánh, không phải lấy phương tiện để đạt đến phương tiện, hay lấy niềm tin làm phương tiện để bào chữa hay ngụy biện những suy tư bất hợp lý lẩn quẩn của mình.

Đạo Phật đề cao vai trò chánh tri chánh kiến, vì đạo Phật cho rằng, nguồn gốc khổ đau của con người là do vô tri hay còn gọi là vô minh. Như vậy, con người muốn có đời sống giác ngộgiải thoát (bình anhạnh phúc), chỉ có con đường duy nhất, tự con người phải làm sống dậy đời sống hiểu biết, tôn trọng vai trò suy tư và nhận thức của con người, đỉnh cao của sự hiểu biết, suy tư là trí tuệ, chính nó mới có thể chặt đứt tất cả phiền não. Đó là lý tại sao đạo Phật đề cao vai trò trí tuệ, xem niềm tin như là phương tiện đưa chúng sanh đến giác ngộgiải thoát.

Taipei, ngày 20/11/2004



[1] HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tăng Chi Bộ” tập 1, VNCPHVN ấn hành, 1996, trang 114.

[2] Kinh này tương đồng với “Kinh Trung Bộ” ‘Tiểu Kinh Sư Tử Hống’.

[3] Viện Cao Đẳng Phật học Hải Đức Nha Trang dịch “Kinh Trung A Hàm”, VNCPHVN ấn hành 1992, trang 621~623.

[4] HT. Minh Châu dịch “Kinh Trung Bộ” tập 2, ‘Kinh Giáo Giới Rahula ở Rừng Am-ba-lađức Phật dạy: ‘Này Rahula nếu sau khi phản tỉnh, ông biết: Thân nghiệp (khẩu nghiệp, ý nghiệp) này ta muốn làm, không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp (khẩu nghiệp, ý nghiệp) này là thiện, đưa đến an lạc, đưa đến quả báo an lạc. Một thân nghiệp (khẩu nghiệp, ý nghiệp) như vậy, ông nên làm. (trang 175).

[5] ‘Kinh Giáo Giới Rahula ở Rừng Am-ba-la’ đức Phật dạy: ‘Này Rahula nếu sau khi phản tỉnh, ông biết: Thân nghiệp (khẩu nghiệp, ý nghiệp) này ta muốn làm, đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, thời thân nghiệp (khẩu nghiệp, ý nghiệp) này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đưa đến quả báo đau khổ... Một thân nghiệp (khẩu nghiệp, ý nghiệp) như vậy, ông nhất định chớ có làm. (trang 174~175)

[6] HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tăng Chi Bộ” tập 1, VNCPHVN ấn hành, 1996, trang 338.

[7] Xin tham khảo, HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập I, ‘Tương ưng Bà-la-môn. Phẩm Cư sĩ’, trang 401~403. Hay xem “Kinh Tạp A hàm” kinh số 54, 89, 90, 93, 837, 1039~1040, 1123~1125, 1135, 1241.

[8] Xin tham khảo, Thích Hạnh Bình “Đạo Phật xưa và nay”, được đăng tải trên trang Website: www.chuaquocteonline.net/thuvien

2. Đức Phậtvị Đạo

Cho đến nay mọi người đều biết Phật giáo là một tôn giáo, nhưng đứng trên ý nghĩa của từ tôn giáo mà hiểu thì Phật giáo không phải là tôn giáo, vì Phật giáo không có thần quyền, bản thân đức Phật cũng không tự cho mình là một vị giáo chủ, Ngài tự xác nhận mình chỉ là người chỉ ra sự thật của cuộc sống là khổ đau và làm thế nào để đoạn trừ những khổ đau, để được hạnh phúcan lạc. Những ai muốn thành đạt được mục đích này, phải tự mình tu tập, sửa đổi tâm tánh, chuyển mê thành ngộ, lựa chọn cuộc sống khổ đau hay hạnh phúc đều do chính con người chúng ta chọn lựa, không phải do đức Phật hay Chúa quyết định, đức Phật chỉ là vị Đạochỉ đường mà thôi. Giáo lý duyên khởinhân quả của Ngài đã khẳng định điều đó. 'Kinh Đa Giới' trong "Kinh Trung A hàm" đức Phật đã trình bày rất rõ về quan điểm của Ngài như sau:

Phàm có những sợ hãisanh khởi, này các tỷ kheo, tất cả những sợ hãi ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí; Phàm có những thất vọngsanh khởi, này các tỷ kheo, tất cả thất vọng ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí; Phàm có những hoạn nạnsanh khởi, này các tỷ kheo, tất cả hoạn nạn ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí.[17]

Lời dạy này tuy rất đơn giản nhưng nội dung hàm chứa ý nghĩa thật sâu sắc, không những nói lên sự công bằng của luật nhân quả mà còn nói lên quan điểm của đức Phật về phương pháp giáo dục con người.

Đức Phật cho rằng, tâm lý sợ hãi, lo âu, phiền muộn... là kết quả của lòng ngu si, trong Phật giáo gọi là ‘vô minh’. Vô minhnguyên nhân sâu xa của mọi sự khổ đau. Ví dụ, trạng thái khổ đau của một người đánh bạc là kết quả của việc đam mê cờ bạc, việc đam mê cờ bạc xuất hiện từ lòng tham lam, tham lam là sự biểu hiện của tâm ngu si, như vậy ngu si là nguồn gốc của khổ đau.

Thế thì bằng cách nào chúng ta đoạn trừ đau khổ? Phải chăng chúng ta cầu Chúa xin Phật để Ngài giảm tội ban vui? Theo đạo Phật không ai có quyền cho ta niềm vui hay đọa đày chúng ta đau khổ, vì nguồn gốc của sự đau khổ xuất hiện từ lòng ngu si, mà lòng ngu si ở ngay trong lòng của chúng sanh, không phải là ở Phật hay Chúa, đồng thời sự ngu si ấy là một trạng thái tâm lý chứ không phải là một vật để có thể dùng hình thức 'xin' và 'cho'. Như vây, con người muốn đoạn trừ nỗi đau khổ chỉ có biện pháp duy nhất là lấy sự hiểu biết, lấy trí tuệ làm phương tiện để đoạn trừ tính ngu si ấy. Ví như, bóng tối và ánh sáng không phải là cái xin và cho. Nơi nào có ánh sáng thì nơi ấy không ai có thể mang bóng tối vào được, dù người đó là Phật hay Chúa, ngược lại nơi nào không có ánh sáng thì nơi ấy phải chịu cảnh tối tăm, dù có Chúa hay Phật cũng không thể biến nơi đó có ánh sáng. Cũng vậy, chúng ta không thể xin Phật cho chúng ta trí tuệbản thân chúng ta không tu tập, không thắp lên ngọn đuốc của chính mình.

Như vậy, Phật có giá trị gì đối với đời sống con người? Xin thưa rằng, đức Phật là người giúp ích cho con người cho xã hội rất nhiều, vì Ngài là người đã khám phá tính hai mặt của cuộc sống là khổ đau và hạnh phúc. Ngài chỉ ra rằng, khổ đau luôn luôn gắn liền với vô minh; và hạnh phúc luôn luôn gắn liền với trí tuệ. Ngài định nghĩa vô minh là cái thấy cái biết của ảo tưởng, không đúng với sự thật, từ chuyên môn trong kinh tạng Pàli gọi là 'không như lý tác ý' hay trong kinh điển Đại thừa gọi là 'điên đảo mộng tưởng'. Do vì điên đảo không thấy đúng sự thật, cho nên dẫn đến hành vi sai lầm, từ hành vi sai lầm đưa đến kết quả không như ý muốn; cái gì xuất hiện mà không như ý thì cái ấy là khổ sanh. Đó là lý do tại sao đức Phật cho rằng, nguồn gốc của khổ đau là vô minh. Cũng vậy, hạnh phúc luôn luôn gắn liền trí tuệ, tiếng Pàli gọi là pañña tiếng Phạn gọi là pra-jñāparamitŒ. Hai từ này hàm chứa ý nghĩa khác nhau, nhưng đều có nghĩa là trí tuệ, tức là sự hiểu biết đúng, kinh tạng Pàli gọi là 'như lý tác ý' trong "kinh Pháp Hoa" gọi là 'thập như thị'. Vì sự hiểu biết đúng như sự thật, cho nên dẫn đến hành động đúng, do vì hành động đúng cho nên đưa đến kết quả là hạnh phúc. Đó là lý do tại sao đức Phật cho rằng trí tuệnguyên nhân đưa đến đời sống an lạchạnh phúc.

Nếu như chúng ta chấp nhận cách lý giải này, thì chúng ta không nên xem đức Phật như là một vị thần linh, có quyền ban phước giáng họa cho mọi người, vì Ngài cho rằng, ngu si là nguồn gốc của phiền não, trí tuệ là cội nguồn của hạnh phúc. Trí tuệ chỉ xuất hiện qua sự nỗ lực tu tập, hành trì giới định và tuệ, không phải là cái từ trên trời rơi xuống, hay do ai cho.

Do vậy, chúng ta không nên có suy nghĩ sai lầm xem đức Phật như là vị Thượng đế, có quyền năng ban phước hay giáng hoạ, Ngài chỉ là bậc Đạo sư, chỉ dẫn con đường đưa đến Niết bàn. Nội dung và ý nghĩa của từ 'Đạo sư' trong đạo Phật, không đồng nghĩa với khái niệm Thượng đế của đạo Thiên Chúa, vì ý nghĩa của từ 'Đạo sư' không mang khái niệm 'Sáng tạo' và 'quyền năng', ngược lại ý nghĩa của từ 'Thượng đế' thì bao hàm hai ý nghĩa này. Đây là điều chúng ta cần chú ý. Do vậy, trong tiến trình tu tập của một vị xuất gia hay tại gia trong Phật giáo, đức Phật chỉ giữ vai trò là một vị đạo sư, tường tận chỉ dẫn cho đệ tử con đường đoạn trừ phiền não, để hướng đến cuộc sống an lạchạnh phúc. Con đường đó chính chúng ta phải tự thực hành, không phải đức Phật là người làm thay; không phải chúng ta cứ tin đức Phật, tự mình không cần thấy sai và sửa sai, rồi đến một ngày nào đó, Ngài sẽ cho ta sự giác ngộ giải thoát. Liên quan đến ý tưởng này, trong "Kinh Tương Ưng Bộ" (samyutta-Nikàya) tập 3, ‘Phẩm Trưởng Lão’ đức Phật dạy rằng:

Người không giỏi về đường sá, này Tissa, là ví cho kẻ phàm phu. Người giỏi về đường sá, này Tissa, là ví cho Như Lai, bậc A La Hán, chánh đẳng giác.[18]

Ở đây đức Phật chỉ rõ, phàm phu chúng sanh là những người không biết rõ con đường đi đến Niết bàn, còn đức Như Lai (Tathàgata), bậc A La Hán (Arahato) là người đã biết rõ và đã thực hành con đường đó. Do vì không biết 'con đường giác ngộ' cho nên chúng sanh trôi lăn trong sanh tử luân hồi, còn Như Lai vì biết rõ và đã thực hành con đường đó, cho nên Ngài được giải thoát giác ngộ. Từ ý nghĩa này, cũng gợi ý cho chúng ta hiểu đến một ý nghĩa khác, sự khác biệt giữa đức Phật với chúng sanh là 'biết' và 'không biết', Phật là người biết, chúng sanh là những người không biết. Thế thì chúng ta muốn thành đạt sự giác ngộgiải thoát không thể dừng lại ở niềm tin mà phải nỗ lực thực hiện 'tinh tấn', 'niệm', 'định' và 'tuệ'. Trí tuệ là nhân của giải thoát. Ngoài ra, 'Kinh Ganakamoggallàna Sutta' trong "Kinh Trung Bộ" (Majjhima Nikàya" ghi lại cuộc đàm thoại giữa đức Phật và Moggallàna, với nội dung nói rõ quan điểm vai trò của đức Phật trong sự nghiệp độ sanh của Ngài.

Moggallàna hỏi Thế tôn:

- Các đệ tử của Sa môn Gotama, khi được Sa môn Gotama khuyến giáo như vậy, giảng dạy như vậy, có phải tất cả đều chứng được cứu cánh Niết bàn hay chỉ có một số chứng được?[19]

Thế tôn trả lời:

- Này Bà la môn, một số đệ tử của ta, khi được thuyết giáo như vậy, giảng dạy như vậy, một số chứng được cứu cánh Niết bàn, một số không chứng được.[20]

Moggallàna lại hỏi:

- Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì trong khi có mặt Niết bàn, trong khi có mặt con đường đưa đến Niết bàn, trong khi có mặt Tôn giả Gotama là bậc chỉ đường, tuy vậy các đệ tử Tôn giả Gotama, được tôn giả Gotama khuyến giáo như vậy, giảng dạy như vậy, một số chứng được cứu cánh Niết bàn, một số không chứng được?[21]

Thế tôn không trực tiếp trả lời câu hỏi của đối phương, gián tiếp trả lời bằng cách đặt vấn đề ngược lại. Cách trả lời này nhằm mục đích lấy câu trả lời của đối phương làm câu trả lời cho chính mình. Cho nên đức Phật đã đặt vấn đề: nếu như có người hỏi ông về con đường đi đến thành Vương Xá, ông cặn kẽ trả lời cho họ nên đi theo con đường này sẽ đến thành, nhưng họ không làm theo sự chỉ dẫn của ông, thế thì người đó có thể đến được thành Vương Xá không? được Bà la môn Ganaka Moggallàna trả lời 'không', cho nên Thế tôn trả lời:

Cũng vậy, này Bà la môn, trong khi có mặt Niết bàn, trong khi có mặt con đường đưa đến Niết bàn, và trong khi có mặt ta là bậc chỉ đường. Nhưng các đệ tử của ta, được ta khuyến giáo như vậy, giảng dạy như vậy, một số chứng được cứu cánh Niết bàn, một số không chứng được. Ở đây này Bà la môn, ta làm gì được? Như lai chỉ là người chỉ đường. [22]

Qua mẫu đối thoại này, đức PhậtBà la môn Ganaka Moggallàna đều xác nhận: Sự thậtNiết bàn (titthat'eva nibbànam), có con đường đưa đến Niết bàn (titthati nibbànagàmi-maggo). Điều này gợi ý cho chúng ta hiểu, đạo Phật không phải là một tôn giáo bi quan, nhìn cuộc đời chỉ có khổ đau và sầu muộn, mà đạo Phật chỉ ra rằng, ngoài cuộc sống khổ đau, con người còn có cuộc sống an lạc hạnh phúc và có con đường đưa đến cuộc sống hạnh phúc đó. Đây là quan điểm rất tích cực của đạo Phật, một quan điểm giáo dục rất trong sáng thực tế và khả thi.

Nhưng ở đây có một vấn đề được đặt ra, bằng cách nào chúng ta đạt được cuộc sống hạnh phúc đó? Chúng ta hoàn toàn dựa vào 'niềm tin' để một ngày nào đó được đức Phật đưa ta đến cõi Niết bàn, hay là chúng ta phải tự mình nỗ lực thực hành lời dạy của Ngài để được giải thoát giác ngộ? Đoạn kinh văn vừa dẫn đã cho chúng ta câu trả lời rất rõ ràng: 'Như Lai chỉ là người dẫn đường' mà thôi. Điều đó có nghĩa là dẫu rằng có Niết bàn, có con đường đi đến Niết bàn, và có cả Như Lai là người chỉ đường, nhưng nếu chúng ta không thực hành theo những gì đức Như Lai đã chỉ dẫn, hoặc thực hành không đúng theo sự chỉ dẫn, hành giả cũng không thể đến được cõi Niết bàn. Lý do tại sao? Câu trả lời đơn giảnchúng ta không thực hành hoặc không thực hành đúng lời Phật dạy, cho nên trong hàng đệ tử của Ngài, mặc dù tất cả đều được hướng dẫn tu tập dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn, nhưng có người chứng quả, nhưng cũng có người không chứng quả, giống như Ganaka Moggallàna đã chỉ đường cho khách bộ hành, nhưng khách bộ hành không đi theo sự chỉ dẫn, kết quả không đến được mục đích. Đó không phải là lỗi của người chỉ đường mà lỗi của người bộ hành không làm theo. Đó là lý do tại sao đức Phật nói: Như Lai chỉ là người dẫn đường (Maggakkhayi, bràhmana, Tathàgato—The Tathàgata is one who shows the way).

 Ý nghĩa câu nói này, đức Phật xác minh rõ Ngài không phải là vị ‘Thượng đế’ hay ‘Thần linh’ có quyền ban thưởng cho những ai cảm thấy vừa lòng, hoặc trừng phạt cho những ai không phục tùng theo ý Ngài. Theo đạo Phật, luật nhân quả rất công minh, nhân nào thì quả nấy, không ai có quyền làm cho người khác đau khổ hay hạnh phúc, sự đau khổ hay hạnh phúc của mỗi người đều do bản thân người ấy tạo nên. Đây chính là lý do tại sao đức Phật dạy:

Hãy sống tự mình làm hòn đảo cho chính mình, này các Tỷ kheo, hãy nương tựa nơi chính mình, không nương tựa một ai khác. Hãy lấy pháp làm hòn đảo, hãy lấy pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một ai khác. [23]

Có thể nói, đây là khuynh hướng giáo dục của Phật giáo, luôn đề cao tinh thần biết ‘bổn phận’ và ‘trách nhiệm’. Người biết bổn phận và trách nhiệm không những là người Phật tử tốt mà còn là một công dân tốt trong xã hội. Theo tôi, khuynh hướng giáo dục này cần được thực thi ở xã hội ngày nay - một xã hội đang có chiều hướng mâu thuẫn giữa thành quả của khoa học và hệ thống giáo dục thuần túy tôn giáo. Quá đề cao thành quả của khoa học kỹ thuật là nguyên nhân đưa đến xã hội hỗn loạn, xem nhẹ vai trò đạo đức, đánh mất tình cảm giữa người với người, giữa mẹ và con, giữa bạn bè… Mặt khác, quá cường điệu những hình thức sinh hoạt tín ngưỡng thần quyền sẽ là yếu tố chận đứng sự phát triển của xã hội, xa rời tinh thần biết bổn phận và trách nhiệm của con người, là nguyên nhân cản trở cho thế hệ trẻ đến với tôn giáo. Tuổi trẻ chỉ biết sự thành tựu của khoa học về vật chất, không biết giá trị giáo dục của tôn giáo sẽ có nguy cơ xem thường đạo đức, dẫn đến xem thường bổn phận trách nhiệm với chính mình, với gia đìnhcuối cùng là bổn phận trách nhiệm đối với xã hội. Đây là hai cực đoan đang hình thành và xảy ra trong xã hội chúng ta. Theo tôi, hệ thống giáo dục Phật giáo sẽ giúp cho con người không rơi vào hai cực đoan này, có nghĩa là không quá đề cao tự mãn với thành quả của khoa học vật chất, cũng không quá cường điệu sinh hoạt tín ngưỡng thuần túy, mang tính thần quyền. Tính giáo dục của đạo Phật đề cao vai trò trí tuệ, biết bổn phận và trách nhiệm, đồng thời lấy trí tuệ làm kim chỉ nam xây dựng nếp sống đạo đức, không ngăn cản sự tiến bộ của con người và luôn phù hợp với nhu cầu tiến bộ của xã hội.

Ngoài ý nghĩa đức Phật là một vị Đạo Sư, trong "Kinh Tạp A hàm", kinh số 389 đức Phật còn tự ví mình như là vị 'Lương y', được ghi lại như sau:

Có bốn pháp thành tựu gọi là bậc Đại y vương, xứng đáng ngôi vị vua. Những gì là bốn? Thứ nhất là khéo biết bệnh, thứ hai là khéo biết nguyên nhân của bệnh, thứ ba là khéo biết cách đối trị bệnh, để về sau bệnh không còn tái phát nữa…Như Lai Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác là bậc Đại Y vương thành tựu bốn đức, chữa lành bệnh chúng sanh cũng như thế. Những gì là bốn? Đó là Như Lai biết đây là khổ thánh đế đã biết như thật; Đây là khổ tập thánh đế đã biết như thật; Đây là khổ diệt thánh đế đã biết như thật; \đây là khổ diệt đạo đế đã biết như thật….[24]

Trước nhất đức Phật nói rõ về đặc tính của một vị 'lương y' ở thế gian, có 4 đặc tính: thứ nhất, có khả năng chẩn đoán căn bịnh; thứ hai, biết rõ căn nguyên của chứng bịnh; thứ ba, biết rõ phương pháp trị bịnh; thứ tư, sau khi trị xong bịnh không tái phát. Đây là 4 đặc tính mà một vị 'lương y' ở thế gian cần phải có.

Cũng vậy, đức Phật cũng là một vị 'lương y', nhưng Ngài không phải là lương y của thế gian mà là vị lương y ‘xuất thế gian’. Thế thì như thế nào được gọi là một vị lương y của xuất thế gian? Căn cứ nội dung và ý nghĩa bản kinh vừa dẫn trên, chúng ta thấy rằng, sở dĩ Ngài được gọi là vị lương y xuất thế gian, vì Ngài là người đã chứng tri pháp Tứ đế (Catvàri-àryasatỳani): Điều thứ nhất là Khổ đế (Duhkha-satya), là hiện trạng thực tế của đời sống con người, bao gồm hai loại khổ đau, loại khổ đau thuộc về tự nhiên và loại khổ đau thuộc về tinh thần. Những loại khổ đau thuộc về tự nhiên như là sự đói khát, nóng lạnh, bịnh tật.v.v...bất cứ ai cũng có, dù đó là Phật hay thánh. Loại khổ thuộc về tâm lý, chỉ cho những trạng thái khổ đau xuất phát từ tâm lý, như thương yêu nhau mà phải sống chia lìa (ái biệt ly khổ), cầu mong mà không được (cầu bất đắc khổ), ghét mà phải sống gần nhau (oán tắng hội khổ). Thứ hai là Tập đế (Samudaya-satya) là những nguyên nhân làm phát sinh những khổ đau cho con người, nó chính là vô minh, được biểu hiện bằng lòng khát ái. Thứ ba là Diệt đế (Nirodha-satya), là trạng thái an lạchạnh phúc, khi con người chấm dứt lòng tham lam sân hậnngu si, hay còn gọi là trạng thái Niết bàn. Thứ tư là Đạo đế (Màrga-satya), là con đường hay phương pháp đoạn trừ phiền não, tức là con đường bát chánh đạo, bắt đầu là chánh kiến... Nói tóm lại, nội dung ý nghĩa của giáo lý Tứ Đế nhằm thuyết minh về hai phương diện về cuộc sống của con người, một là mặt nhiễm ô bao gồm Khổ đếTập đế, nói lên cuộc sống của con người vốn là khổ đau và nguyên nhân sinh ra khổ đau; hai là mặt bất nhiễm ô hay thanh tịnh, bao gồm Diệt đếĐạo đế, phản ánh nếu như con người biết sống, chính cuộc sống này cũng cho ta cuộc sống hạnh phúcan lạc, ở ngay cuộc đời này.

Từ ý nghĩa này ta thấy Phật giáo không phải là một tôn giáothái độ bi quan, nhìn cuộc đời với cặp mắt chỉ có khổ đau và sầu muộn, mưu cầu một kiếp sống an lạc ở bên kia thế giới, như một số người đã nghĩ. Theo tôi, Phật giáo là một tôn giáo dám nhìn thẳng vào sự thật, đức Phật đã thẳng thắn chỉ ra cuộc đời vốn có sự đau khổnguyên nhân gây ra sự đau khổ đó. Không những chỉ có thế mà đạo Phật còn chỉ ra, ngoài cuộc sống khổ đau, con người còn có cuộc sống an lạchạnh phúccon đường đi đến cuộc sống đó. Cuộc sống an lạchạnh phúc không phải là cuộc sống sau khi từ giã cuộc đời, đi qua bên kia thế giới mới có, mà nó ở ngay trong đời sống này, khi chấm dứt lòng tham lam, nóng giận và ngu si thì khi ấy hạnh phúc liền xuất hiện. Như vậy, chúng ta không thể cho rằng Phật giáo là một tôn giáo tiêu cực mà là một tôn giáo tích cực, không phải là tôn giáo bi quan mà là một tôn giáo lạc quan, không phải là một tôn giáo chỉ đề cập đến xuất thế mà còn đề cập đến tinh thần nhập thế.

Thế thì vị lương y của thế gian là người giúp cho con người làm giảm thiểu những nỗi khổ về thân. Đức Phật cũng là vị lương y, nhưng chủ trị của Ngài không chuyên trị 'thân bịnh' mà chuyên trị 'tâm bịnh' của chúng sanh. Thân tuy không bịnh nhưng với tâm đầy lòng tham lam hận thùngu si thì nỗi khổ đau phiền muộn chất chồng như núi, thân tuy bịnh nhưng lòng tràn đầy bao dung từ mẫn và sáng suốt, cuộc sống vẫn cảm thấy an lạchạnh phúc.

Tóm lại, đức Phật chỉ là một vị 'Đạo sư' hay là một vị 'Lương y', ý nghĩa này vô cùng sâu sắc. Có người không hiểu lại cho rằng ý nghĩa này làm giảm đi giá trị của đức Phật. Theo tôi, nó không những không làm giảm đi uy tín của Ngài mà ngược lại còn làm tăng thêm uy tín của Ngài, nhất là ở xã hội ngày nay.

Với đời sống lạc lậu của con người trong quá khứ khi chưa có ánh sáng của khoa học kỹ thuật, tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng đã vay mượn sự bỡ ngỡ trước những hiện tượng xảy ra bất thường của thiên nhiên làm phương tiện giáo dục con người. Thần thánh hóa đức Phật, với mục đích giúp cho con người tránh xa điều ác, làm những điều lành, để cuộc sống con người được hạnh phúcan lạc. Ở xã hội ngày nay, nhất là ở xã hội Tây phương với hệ thống giáo dục tốt, cộng thêm nền khoa học kỹ thuật tiên tiến, những hiện tượng tự nhiên dần dần đã được khám phá, không còn là sự nghi ngờ của con người, phương tiện giáo dục mang tính thần thoại ấy, không còn thích nghi nữa, thế thì tại sao chúng ta không vận dụng tinh thần trong sáng vốn có của đức Phật để giới thiệu cho con ngườixã hội ngày nay? Tại sao chúng ta không giới thiệu đức Phật bằng xương bằng thịt, bằng trí tuệ siêu việt trong sáng của Ngài cho mọi người, nhất là cho thế hệ trẻ - thế hệ đã trang bị cho mình một vốn kiến thức cơ bản trước khi vào cuộc sống? Như vậy, đức Phật lịch sửvai trò hết sức quan trọng ở xã hội chúng ta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11483)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12653)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12267)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11049)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10921)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13375)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11797)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13676)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11916)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11185)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12213)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12415)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20609)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12442)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12468)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11731)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11605)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22444)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13587)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29711)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16767)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12019)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16858)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12085)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17939)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12656)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13185)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14775)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22644)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10596)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14067)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13882)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13734)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13881)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13952)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14843)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13865)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18429)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22816)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15409)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17336)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14278)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12596)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11181)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13221)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13117)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18811)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17196)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13533)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12932)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14710)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14668)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15887)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13529)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27451)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13257)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16739)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant