Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

I. Theo Kant

02 Tháng Chín 201100:00(Xem: 10467)
I. Theo Kant

THỰC TẠI VÀ CHÍ ĐẠO
Phổ Nguyệt, Ph.D.

PHẦN MỘT
TRI KIẾN

CHƯƠNG BỐN
CƠ CẤU LÝ THUYẾT VỀ TRI KIẾN

I.-THEO KANT
(TC Triết 2, Karl Jaspers, N.H.Liêm, 137-193)

Kant đưa ra một hệ thống lý thuyết về tri kiến rất phức tạpsâu rộng.

1.- Tính lưỡng phân (The Dichotomy):
Ý thức (consciousness) tác động trong tính lưỡng phân giữa chủ thể suy thức (thinking subject) và đối thể (thought object). Trong tri kiến, tôi phán đoán (judge) một cách tự phát, nhưng không phải là trong khoảng không. Rằng trong tác năng suy thức của tôi có một tính khách quan là nhờ tác năng nầy được chất chứa bởi trực giác của cái gì đó có sẵn đưa đến cho tôi để tôi cảm nhận đến nó được. Do vậy, có hai thành phần của tri kiến: tự phát (spontaneity) và tiếp cảm (receptivity), hay là hiểu biết tri giác (understanding) và cảm quan (sensibility).

2.- Cảm quan, Không, Thời:
Hễ khi nào tôi biết đến cái gì qua trực giác, cái gì đó đã đưa sẵn (given) cho tôi-Kant gọi cái gì nầy là cảm quan (sensibility). Và trực giác không gì hơn mà chỉ là giác quan. Và nếu khôngcảm quan thì không có thực tại. Nó là nhân chứng cho chúng ta nhận thấy được thực tại. Cảm quan không phải là một hệ thống của cảm giác (sensation)-mà là, theo Kant, là thực tính vật thể (physical actuality).Chúng ta hãy khai sáng vấn đề nầy qua tỷ dụ sau:

Đối thể là cái bàn trước mặt. Chúng ta tiếp nhận nó, qua cảm giác, một cách tự khởi: màu, ánh sáng, bóng. Nếu ta bỏ hết tất cả những cái liên hệ đến giác quan, chúng ta vẫn còn có thể tướng (form) và trương độ (extension), hay là spatiability (thực tại không gian). Khoảng không gian nầy thuộc về trực giác vì nó không được cảm nhận bởi một cơ năng cảm giác nào cả. Dĩ nhiên, cái bàn nầy không những chỉ thuộc về cảm giáckhông gian. Nó còn là một thể trạng khách quan tự hữu-khi cái bàn tồn hữu cho tôi chỉ khi qua tác động đối chọi mà trong đó giác quankhông gian trở thành một yếu tố của đối thể nầy. Ngoài ra, cái bàn nầy còn mang một nội chất (substance), ví dụ lực cản tự hữu từ vật thể. Như thế, cái bàn có ba yếu tố: cái của cảm giác; không gian như là hình thức của trực giác; và phạm trù của nội chất. Chúng không điều hợp lẫn nhau, mà cái nầy nằm trong cái kia, cái kia bao hàm cái nọ.

Với một thủ tục như thế, chúng ta không phải là đang phân tích cái bàn mà chỉ là nghiên cứu bản chất khách quan của nó như là một đối thể cho kiến thức: cảm giác, vị thế không-thời, trực giácphạm trù. Tất cả các yếu tố trên có thể tách rời ra khỏi giác quan, ngoại trừ yếu tố không-thời, vốn là thuần thể tướng (pure forms).

Từ đó, câu hỏi phải được nêu lên: Có phải không và thời là thực tính tự hữu-vốn tồn hữu ngay cả khi không có một chủ thể biết đến, nghĩa là một thực tại tuyệt đối? Hay chúng chỉ là thể trạng của trực giác phát xuất từ chủ thể, mà từ đó kiến tạo nên đối thể, hay là, nếu không có chúng (forms) thì đối thể không thể tồn hữu? Có phải thực tại không và thời tùy thuộc vào chủ quan? Theo Kant thì ông nghiêng về vế thứ nhì bằng cách chứng minh rằng: (a) Không gian không thể được rút ra khỏi kinh nghiệm, bởi vì, tự khởi thủy, nó nằm ngay nền tảng của kinh nghiệm và là điều kiện căn bản cho sự hữu của đối thể cho tôi. Do đó, (b) không gian là một trực giác tiên nghiệm, a priori intuition, thiết yếu. Chúng ta không thể hình dung ra một đối thể mà không có một không gian; nhưng chúng ta có thể hình dung ra không gian mà không cần đến đối thể. Và (c) sự phân chia không gian (divisions) không gian không thể là tiên quyết (precede) không gian như là những cơ phận của nó vốn được hợp nhất vào với nhau, mà chúng bao gồm lẫn nhau.

Kế đến, Kant đưa ra một cơ chế lý giải qua bằng chứng (prơof): Trong hình học, chúng ta biết a priori đến những liên hệ áp dụng được vào thực tại-không bằng duy khái niệm, mà bằng mô giới trực giác. Những thông tuệ (insight) về hình học không được từ kinh nghiệm nhưng lại được kiểm chứng bằng kinh nghiệm. Làm sao có được chuyện nầy? Chủ thể, bằng thể trạng trực giác, nhận ra một thực tế vốn đã được kiến tạo bởi nó. Từ đó, Kant kết luận: không gian không phải là thuộc tính (attribute) của một cái gì tự nó (thinh in itself), nhưng chỉ là một cái gì khi nó trình diện ra cho đối thể, có nghĩa rằng, nó chỉ là nó là một hiện tượng (phenomena). Và chúng ta loại bỏ hết tất cả những điều kiện của trực giác thì không gian sẽ không tồn hữu (đối với chúng ta). Và chỉ có từ quan điểm con ngườichúng ta mới có thể nói đến không gian.

Còn vấn nạn của Thời? Khác với không gian, vốn là thể dạng của trực giác cho cái bên ngoài, Thời là thể trạng của cái bên trong (inner sense) và bao gồm tất cả các hiện tượng. Chúng ta không thể biểu hiện Thời cho chính nó bằng thể dạng bên ngoài-ngoại trừ chúng ta phải dựa vào không gian, ví dụ như vẽ biểu đồ Thời thể bằng một gạch ngang từ t1 đến t2.

Quan điêm như trên của Kant về Không và Thời- như là thể trạng của trực giác về vật thể, mà không là thực tại tự hữu-được gọi là duy tâm luận (idealism). Dĩ nhiên, Kant không phải là triết gia khởi đầu cho trường phái duy tâm. Trước đó, có kẻ cho rằng thế giới nầy chỉ là ảo giác, không thật. Kant tố cáo quan điểm đó và cho nó là scandal triết học. Theo Kant, thế giớithể hiện (appearance), chứ không phải là ảo tưởng (illusion). Hay nói một cách khác: Không và thời có hữu tínhgiá trị thực chuẩn (validity) khách quan với những đối thể đến với chúng ta, cũng như có giá trị nội tại đối với năng lực chủ quan. Chúng có lý tưởng tính (ideality) bởi vì những gì biểu hiện cho chúng ta không phải là cái gì tự chúng nó (thing in-itself). Kant nói, Không và thời có thực tại nghiệm thể (empiric reality), nhưng, (với) lý tưởng tính siêu nghiệm (transcendental ideality). Bởi vì sao? Theo Kant, và đây là chủ thuyết quan yếu của ông, cái thực tính tự hữu, the thing in-itself (ding un-sich), không thể nào thể hiện ra cho chúng ta.

3.- Suy Tưởng (Thinking):

Đối với Kant thì không, thời và vật thể đưa đến cho giác quan tất cả chỉ là một yếu tố cho kiến thức, cái yếu tố khác là tư tưởng (thought). Tất cả những thể thức của tư tưởng chỉ có thể cho chúng ta nhận thấy sự vật như là nó thể hiện chứ không phải là tự tính của nó. Lý do là khi chúng ta có được một trật tự cảm quan, qua thể thức chủ quan của trực giác, không và thời, từ đó chúng ta sản xuất ra những hình thái vật thể từ kinh nghiệm bằng thể thức chủ quan của suy tưởng. Thể thức cho suy tưởng nầy là những phạm trù (categories). Phạm trù là cái khuôn mà chúng ta kiến tạo nhằm cai quản những thể dạng cho suy thức- bất cứ đối thể nào tồn hữu cho chúng ta. Vì vậy, cấu trúc phạm trù trong suy thức tạo ra một hiện hữu của đối thể chỉ thuần trên phương diện hiện tượng. Cái gì mà ta nhận biết, cảm quan được, phải qua những khuôn thức chủ quan- những phạm trù của suy tưởng. Và bất cứ cái gì có thể tồn hữu, mà thực ra là nó không thực sự tồn hữu tự nó, qua khuôn thức trực giáctư tưởng, đều là của thực tại nghiệm thực (empirical reality).

Để khai sáng thêm những tiền đề trên, Kant sử dụng hai khái niệm: analytic judgement (phán định phân tích) và synthetic judgement (phán định dung hợp). Đây là hai chìa khóa mới và căn bản cho hệ thống tri thức luận của Kant.
Jaspers tóm tắt những suy luận của Kant như sau:

a. Suy tưởng là tác năng liên hợp (act of relating) của trực giác tới đối thể. Không có một đối thể nào mà không được nhận thức (cogitated); và không có suy tưởng vô đối thể (no thinking without an object). Trực giác không thôi thì chưa đủ để kiến tạo đối thể, mà cần tác năng của suy tưởng.

b. Sự tồn hữu của một đối thể tiên giả định (presupposes) sự phân định (differentiation). Một đối thể là đối thể nầy (định thể) chỉ khi nào nó không là một cái khác. Nhưng cùng lúc, mỗi đối thể tự nó là là một và cái khác; cái suy tưởng về nó tiên giả định một chủ thể và một thuộc tính. Do đó, suy tưởng liên tục phân chiakết hợp.

c. Một đối thể được thống hợp trong tư tưởng là chỉ nhờ vào sự thống hợp của tác năng suy tưởng. Khi suy tưởng là khi thống hợp tất cả các biểu hiện về trong một ý thức (consciousness). Phán định là chức năng của sự thống hợp của sự biểu hiện.

d. Tất cả suy tưởng đều phải bao gồm cái Tôi suy nghĩ (I think) vốn phải có khả năng kèm theo tất cả những biểu hiện. Cái Tôi nầy vốn đồng tính với chính nó (identical with itself), tương ứng (corresponds) tới sự thống nhất của sự phán định và đối thể của nó. Tất cả suy nghĩ đều được chuyển động trong sự thống hợp nầy- mà tư tưởng sở dĩgiá trị là nhờ vào nó. Sự thống hợp khách quan có căn bản từ một thống hợp chủ quan cao độ- cái mà Kant gọi là transcendental apperception (siêu cảm thức). Từ đó, phán định là phương pháp để đưa dữ kiện tri thức tới cho sự thống hợp khách quan của siêu cảm thức. 

Chức năng quan yếu nầy được gọi là synthesis (dung hợp). Sự dung hợp nầy sản xuất ra tư tưởng theo thể thức của nó- và phát sinh ra khái niệm. Điều nầy trái với quan niệm thông thường cho rằng khái niệm đến bởi sự trừu tượng hóa những gì phổ quát từ những trường hợp thực nghiệm. Do đó, theo Kant thì những gì phổ quát (universal) trong nội dung tư tưởngtác phẩm của sự dung hợp thực hữu (concrete synthesis).

e. Chỉ có trực giác cảm quan liên hệ trực tiếp, tức khắc đến đối thể. Khi trực giác trở nên đối thể, cái phổ quát, cái phạm trù, đi vào trong nó. Vì thế không có một đối thể nào của tri kiến được lãnh hội trực tiếp bởi chủ thể; tất cả phải được luôn luôn trung giải (mediated). Chúng ta chỉ suy tưởng tới một cái gì qua khái niệm. Kant đưa lên tiền đề cho lý giải nầy: Sự hiểu biết là discursive (suy giải), không phải là trực giác. Nó trải qua một chuỗi qua lại giữa những gì mà nó kết hợp; bằng phương cách hóa giải nó đi đến cái trực tiếp, nó biết qua khái niệm vốn không là cái đối thể cho chính nó.

4. Từ Phán Định Đến Phạm Trù:

Phạm trù là thể thức của suy tưởng (form of thought).Ví dụ như những khái niệm nội chất (substance) hay là nhân quả (causuality) là những phạm trù kiến lập (constructive categories). Khi một đối thể được sản xuất bởi suy tưởng, về cái thể của nó, thì phạm trù và thể thức phán định của nó quyết định lẫn nhau. Cả hai đều phát xuất từ một nguồn gốc trong cái Tôi suy nghĩ của siêu cảm. Những thể thức căn bản của phán định hướng dẫn nền tảng thể thức của phạm trù. Cái kiến lập thống nhất cho phán định cũng kiến lập sự thống nhất cho cho đối thể. Và từ đó mà Kant lấy các phạm trù ra từ các thể loại phán định. Từ cái nguyên lý tổng quan của tư tưởng, vốn nằm trong hệ thống thể thức của phán định, Kant muốn xác quyết những điều kiện tối hậu của tri thức, và từ đó để lấy ra những phạm trù vốn kiến tạo nên tất cả thực tại, cái thể thức cho mọi vật có thể xẩy ra cho chúng ta trong thế giới nầy.

Theo đó, Kant đưa ra những thể thức phán định (forms of judgement) sau đây- được giả định là có sẵn (given):

Lượng: Phổ quát universal), đặc thể (particular), cá thể (individual);
Phẩm: Xác định (affirmative), phủ định (negative), vô hạn (infinite);
Liên hệ (relational): Phạm trù (categoric), hypotheric (giả thuyết), ly tiếp (disjunctive);
Thể thức (modal): Vấn đề (problematic), quả quyết (assertoric), hiển nhiên (apodictic)...
Theo đó, thì Kant đưa ra cấu trúc phạm trù như sau:
Lượng: Thống hợp (unity), bội gia (multiplicity), phổ quát (universality).
Phẩm: Thực tại (reality), phủ định (negation), giới hạn (limitation).
Liên hệ: Nội tính (substance), nhân quả (causality), hỗ tương (reciprocity).
Thức thể (Modal): Khả thể (possibility)- vô khả thể, tồn hữu (existence), vô tồn hữu, thiết yếu (necessity)- ngẫu tính (contingency)...

5. Hai Phân Nhánh:
Cảm nhận (sensibility) và Hiểu biết Tri Giác (Understanding).

Hệ thống tri thức học của Kant nhấn mạnh đến ý tưởng căn bản: tri kiến (knowledge) phát xuất từ hai phân nhánh: cảm nhận và hiểu biết tri giác. Từ cảm nhận, đối thể thì có sẵn, từ hiểu biết thì đối thể được nhận thức (cogitated). Cảm nhận là một đống cảm giác được kích thích, chưa được kiến tạo nên một trật tự. Còn hiểu biết chỉ có suy tưởng, nếu không có gì đưa cho nó, thì tri kiến chưa thể tạo nên. Hiểu biết đòi hỏi trực giác; trực giác đòi hỏi hiểu biết. Cả hai đều dung chứa yếu tố tiên nghiệm tự hữu. Cái nầy phải dựa vào cái kia để có thể vươn ra khỏi tính chất bất định tự tại nhằm chuyển hóa đến tri kiến. Có nghĩa rằng: Tư tưởng mà không có nội dung là trống rỗng; trực giác mà không có khái niệm là mù tối.

Từ đó, đối thể của tri kiến được kiến tạo từ chất liệu của trực giác và minh định bởi thể thức của phạm trù. Chất liệu (matter) thì có sẵn, còn thể thức (form) phải được nhận thức. Một đằng chúng ta có chủ thể, thể thức, tiên nghiệm thuần (pure); đằng kia có đối thể, chất liệu, hậu nghiệm thực tế (empirical).

Đây thường bị hiểu lầm là một luận thuyết nhị nguyên. Nhưng Kant muốn nói lên một điều: dù là hai nhánh có vẻ phân biệt, nhưng cả hai đều được phát xuất từ một cội nguồn không thể biết đến. Nó là một bí mật- cái gốc rễ duy nhất vốn là cội gốc của ý thứctri kiến.

6. Ý Thức (consciousness),Chứ Không Phải Sự Hữu (Being) là Khởi Điểm:

a. Sự Hữu và Ý Thức là cái gì? Jaspers phiên luận Kant: Muốn khai sáng được nghi vấn nầy, câu trả lời phải được bắt đầu từ sự nhìn vào sinh hiện của chúng ta- vốn là ý thức. Khai sáng ý thức là khai sáng tư duy vì cái sinh hiện của tôi là cái biết về cái khác và chính tôi. Trong sinh hữu, có cái mà tôi không thể suy nghĩ để vất bỏ (think away) chúng đi mà không phải hủy diệt chính sự tồn hữu: đó là khái niệm- cái mà đem thể thức cho đối thể. Không có gì là tồn hữu mà không có một sự giả định về thể thức suy tưởng. Jaspers viết, Chỉ có cái gì thuộc về phạm trù là bao hàm tất cả.

b. Suy tưởng bắt đầu bằng suy tưởng: Làm thế nào để bắt đầu trong vòng tròn không có điểm khởi đầu, không có lối ra? Chúng ta suy nghĩ để biết về suy nghĩ, suy thức để biết suy thức, nghĩa là chúng ta giả định suy thức để khai sáng suy thức. Kant bắt đầu từ kiến thức có sẵn. Khi chúng ta cho rằng cái gì là đúng, cái đúng đến từ sự phán định- và cái gì đưa đến cái đúng của phán định là tiến trình suy tưởng.

c. Giá trị khách quan của suy tưởng được đúc kết từ một phiên tòa án gồm nhiều phía muốn đưa lên những lý thuyết về tri kiến. Kant muốn vượt qua tất cả bằng một nhận thức sâu sắc mới: chúng ta biết đến sự vật bởi vì chúng ta sản xuất ra thể thức của chúng ta để qua ý thức chúng ta tạo giá trị cho tri kiến nầy. Vấn đề hòa hợp (concordance) đã được giải quyết.

d. Khái niệm về chủ thể: Khi sự hữu, qua sinh hiện, là của ý thức- và ý thứctri kiến, từ đó cái gì mà ta biết được thì chỉ biết được trong một hoàn cảnh giới hạn của sinh hữu. Chủ thể tri kiến (cogitive subject) là của ý thức- của suy tưởng tự phát, sự thống nhất của tổng hợp trong tác hành suy tưởng, hay là siêu cảm thức (transcendental apperception). Chủ thể nầy không phải là cá nhân mà là cái Tôi suy tưởng. Từ đó, giá trị của phán định không đến từ quan điểm vô căn cứ mà là từ khái niệm đã có sẵn trong chủ thể Tôi suy tưởng nầy. Chủ thể ý thức không thể là một đối thể cho sự quan tâm lý thực nghiệm. Năng động suy tưởng nầy, cái ý thức về cái Ta suy tưởng nầy không thể được điều tra, giảo nghiệm- mà chỉ có thể được cảm nhận qua tự vững chắc (self certainty). Tôi, cái chính tôi nầy, trong tri kiến, là ý thức- vốn biết, nhưng cái sự biết nầy không thể được biết đến như là một đối thể khách quan. Trong cái biết, tri kiến và sự hữu không hề phân biệt nhau- cả hai chính là một.

Do đó, Jaspers. Phiên giải, điều sai lầmquan điểm cho rằng tất cả sinh hữu bao gồm hai lãnh vực: khách thể và chủ thể. Điều nầy đúng với những đối thể tri kiến, nhưng không thể áp dụng đến nguồn cội của ý thứctri kiến. Tôi ý thức được là tôi biết nhưng tôi không thể quan sát cái tôi biết nầy- mà tôi chỉ có thể chắc chắn rằng tôi đang biết mà thôi.

Nhưng cái sinh hữu thực nghiệm của cái Tôi suy tưởng trong thời thể (time) phải được phân biệt ra khỏi cái Tôi suy tưởng bất biến, vượt thời thể. Cái ý thức về ta nầy không phải là một đối tượng cho trực giác thời tại (temporal intuition)- khi mọi trực giác đều tùy thuộc vào thời tính. Không có một thứ trực giác tri thức (intellectual intuition) để có thông đạt được cái Ta suy tưởng bất diệt nầy. Kant, khi nói đến bầu trời đầy sao sáng bên trên và quy pháp đạo đức bên trong chính mình, phát biểu, Tôi liên đới đến với chúng một cách trực tiếp bằng ý thức về cái tồn hữu của chính tôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10401)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7730)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
(Xem: 8540)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
(Xem: 10128)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
(Xem: 18545)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14543)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8841)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8920)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8217)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 9011)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14195)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8462)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15291)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13164)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7818)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16686)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15543)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8990)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7935)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7111)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11275)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14287)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10482)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20474)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8800)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9295)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 24139)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12678)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7818)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16265)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15624)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8754)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7649)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14620)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9314)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15528)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15157)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16647)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13484)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15332)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7845)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7509)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7353)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 9022)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 14043)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 8033)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7852)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15824)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10273)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7711)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7530)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12814)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7870)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8126)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 14078)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7301)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9210)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9681)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13125)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7612)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant