Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kết luận

02 Tháng Chín 201100:00(Xem: 9985)
Kết luận

THỰC TẠI VÀ CHÍ ĐẠO
Phổ Nguyệt, Ph.D.

KẾT LUẬN

 Khi Thấy (Chánh Kiến) mọi sự vật đều giả lập, thì tiến trình tri thức đúng về cái nhận thức sai lầm của chủ khách đưa chúng ta đến giác ngộ. Nhận thức sai lầm của nhị nguyên đối đãinhận thức căn trầncăn trần đều là giả lập, như đã giải thích, thì nhận thức ấy làm sao đúng. Cho nên Tánh Giác là thể nhận nơi thực tướng của sự vật. Thực tướng của sự vật là Tánh Không. Tánh Giác là Thiệt Hư Không; sự vật mà Tâm thể nhập nơi dung thể Không của nó cũng là Hư Không. Vạn vật đồng nhất thể (tâm lẫn vật) là đồng thể Không. Cho nên Tánh Giác (Biết) là trực nhận nơi thể Không của sự vật.

Chúng ta có thể thực hiện Tánh Giác bằng cách dùng Tâm (Biết do trực nhận không qua ý thức của căn trần) để BIẾT CÁI BIẾT CỦA CĂN TRẦN.

Cái biết của căn trần (chủ khách) là năng sở. Tánh biết của năng sở cũng là Tánh Không nhưng giới hạn ở các căn. Cho nên cái Biết của Tâm (Tánh Giác) là Hư Không bao la vô giới hạn hòa nhập tánh không của sự vật (Dung thể không hay tướng không của đối tượng) biến thành một khối vô phân biệt của Hư Không. Đó là thể nhập chốn tịch tĩnh y nhiên, hay thực tế mà nói, Biết cái mình biết là Tánh Giác. Biết do Tâm (Tánh Giác) cái mình biết do căn trần (chủ khách hay năng sở). Tiến trình nầy làm cho năng sở song vong. Tánh Giác vượt khỏi năng sở.

Thiền sư Duy Tín đời Tống nói: Trước ba mươi năm, tôi thấy núi sông là núi sông. Sau gặp thiện hữu tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông không phải là núi sông. Nay được chỗ dứt sạch ( thể nhập nơi tịch tĩnh y nhiên) thấy núi sông là núi sông.

Trước ba mươi năm chưa tu, dùng trí phân tích (thường trí) của căn trần, chủ khách thì thấy núi sông là núi sông. Sau vào tu, gặp thiện tri thức chỉ dạy thì dùng trí phân biệt (thời gian huyễn hóa sự vật) thì thấy núi sông không phải là núi sông thật như ta vừa thấy nữa. Vì trong một sát na khoảnh khắc núi sông ta đang thấy không còn thật là nó nữa, đã huyễn hóa rồi, đã thêm 1 sát na tuổi. Nhìn trên khía cạnh thời gian thì nó không còn thật là nó nữa, đã biến thái rồi. Khi thể nhập vào chốn tịch tĩnh y nhiên, tức là trực nhận nơi thực tướng của sự vật, ngay khi thấy núi sông thì Biết (nhận thức) cái mình biết là núi sông. Đó là thực Biết hay Biết cái thực tướng của núi sông.

*** Các pháp tu dùng phương tiện để hàng phục vọng tâm, triệt tiêu tất cả các vọng tưởng, nghĩa là giảm trừ các vọng tưởng cho đến đổi dường như không còn vọng tưởng, nhưng kỳ thực chỉ còn có một vọng tưởng duy nhất mà thôi đó là nhứt niệm vô minh. Tiến trình giảm trừ đến cực tiểu e # 0 (gần bằng số không, nhưng chưa phải là không).

Nhứt niệm có công năng phi thường, xuyên qua lớp mây mù dày đặc của thế giới vọng tưởng, mà đến một thế giới sáng lạng sẵn dành cho hành giả sử dụng những phương tiện tương ứng. Vì khi hành giả tập trung vào một ý tưởng hay một ý niệm nào thì ý tưởng ý niệm đó sẽ sáng tỏ vô cùng. Thế giới mà nhứt niệm đạt được như Tây Phương cực lạc, A Di Đà Vô Lượng Quang, Thiên Đàng v.v...Từ thế giới công ước đó, hành giả có đủ năng lực thể nhập vào thế giới vô phân biệt, tuyệt đối.

-- Một thí dụ về công năng của nhứt niệm mà người thế gian dùng để đạt đến mục đích nào đó của họ, đó là dùng sức mạnh của tư tưởng để nghiên cứu khoa học chẳng hạn. Còn như các pháp thiền quán tưởng, công án hay thoại đầu, ngay cả niệm Phật dùng thân khẩu ý (tay lần chuỗi, miệng niệm Phật, ý nhận ngay tánh nghe), hoặc niệm chú cũng dùng thân khẩu ý (tay bắt ấn, miệng niệm chú, ý quán tưởng) cũng là đi đến nhứt niệm. Riêng về niệm Phật và niệm chú dùng tam nghiệp tập trung đến nhứt niệm thì công năng đó mạnh mẻ phi thường, gấp ba lần với ý tưởng, vì quá kiên cố, không có kẻ hở để cho một niệm khởi nào xen vào.

--Chẳng hạn,niệm chú, theo Mật Giáo Thậm Tâm Nội Nghĩa, Những phương pháp tu tập liên quan đến việc đầu tiên là là hành giả phải chăm chú nhứt tâm nhìn vào biểu tượng cho đến khi biểu tượng có thể ảnh hiện rõ ràngvững chắc trong tâm. Kế đến, hai tay kiết ấn Nhập vào, hành giả quán tưởng hình ảnh kia trong tâm (tại trái tim). (tr.153)

***Rõ ràng cách niệm chú chỉ là sự tập trung cao độ của thân nhãn nhĩ ý thôi. Đã trình bày trước, lục căn không có thực thể, lục trần (biểu tượng) cũng vậy, thì lục thức (ý thức) làm sao thoát khỏi đường sanh diệt. Ngay quan niệm tức thân thành Phật ngay xác thân còn sống thì không có trái lẻ vì thành Phậtgiác ngộ Niết Bàn, đạt được Tánh Giác, là sự sáng suốt tuyệt đối.Tánh Giác hay Phật Tánh không sanh không diệt, chớ thân thành Phật mà còn sanh diệt vô thường, rồi ngày kia sẽ chết, làm sao gọi Thân là Phật được! Cái bất sanh bất diệtchân lý tuyệt đối chỉ hiễn bày trong tâm giác ngộ mà thôi: Tánh Giác hay Pháp Thân hay gọi là Phật. Còn các căn hay trần (thân xác) chỉ là phương tiện (chiếc thuyền) chớ không thể trở thành Phật, (Pháp Thân, Tánh Giác, Cứu Cánh) được.

-- Một thí dụ khác, một đơn vị (a) gồm có thân xác và tinh thần như chiếc bình không cũng gồm có cái võ bình trong chứa không khí. Trong đơn vị (a) có thể nói gồm có hai thành phần khác nhau, chớ không thể nói hai thành phần ở chung cùng một đơn vịđồng nhứt. Đồng nhứt là cùng một thể hòa hợp nhau. Nhắc lại cái bình là dụng cụ chứa không khí; khi cái bình bị vỡ (vô thường), thì không khí trong bình hòa tan vào hư không. Hư không thì không sanh không diệt bao la vô giới hạn. Cũng như thế, thân xác thì vô thường (sanh già bịnh tử), còn tâm thì bất sanh bất diệt. Do đó muốn giải thoát khỏi cảnh vô thường khổ đau phiền não của thân huyễn hóa để nắm bắt cái pháp thân bất sanh bất diệt là chỉ có tri thức đúng (giác ngộ) cái nhận thức sai lầm của căn trần chủ khách đối đãi của thế giới tương đốithể nhập thực tướng Niết Bàn Tuyệt Đối.

Thực tế, cái huyễn hóa không thể nghĩ bàn (không còn suy nghĩ phân biệt gì ngoài biểu tương giả lập) được tập trung cao độ đến đâu đi nữa cũng chỉ là huyễn hóa mà thôi. Tuy vậy cái huyễn hóa của biểu tượng nầy trở nên quá rõ ràng, vì sự tập trung cao độ như thế tạo thành các ý thức trùng trùng duyên khởi của chỉ một biểu tượng trong tâm; đó là ký ức quá mẫn của một tâm trạng phi thường của một chúng sanh đặc biệt.

Theo Tâm lý học, ảo giác đó quây quần trong tâm trí mãi biến thành hai hậu quả như kể ra từ trước.

--Trong kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, xem thần chú là một biểu tượng giả lập, phải dùng chân trí (Quán tự tại) nhận ngay thực tướng của nó. Tánh Không của thần chú hiển lộ qua quán tự tại nghĩa là dùng Tánh Giác (Thiệt Hư không) thể nhập thể không của thần chú, mới vượt khỏi mọi nhân duyên chằng chịt, khổ đau, luân hồi của thế giới tương đối.

Nói cách khác, niệm Phật, niệm chú, hay khán công án là nhằm mục đích đạt đến cứu cánh của một thực tại công ước với công năng to lớn, là quá sáng suốt, hội nhập vào thế giới vô lượng quang hay thế giới của đức Đại Nhựt Như Lai.

--Phương tiện biện minh cho cứu cánh là lịch trình nhân quả được Tâm lý học giải thích như sau:

-Ý tưởng mà một người có được về kinh nghiệm tương lai là do kinh nghiệm hiện tại của hắn dẫn đến đó.
(The idea that a person has about his future experience guides his present experiences in that direction.
(Trancewwork, p. 93)

Đó là vai trò của khả năng dự tri về kinh nghiệm. Loại quá trình nầy gọi là chu trình định hướng trong địa hạt của lý thuyết hệ thống phân loại.

*** Còn các pháp bổn Bổn như vô pháp (Tánh Giác) dường như không có pháp nào, tự nhiên, nhẹ nhàng, thoải mái. Vậy điều kiện cần và đủ để đạt Tánh Giác là:
-Cần trực nhận được thực tướng sự vật (vô không gian); và
-Đủ là không bám víu vào sự vật đó (vô thời gian). Cũng giống như hàng phục vọng tâm và an trụ tâm tronh kinh Kim Cang, hay trong Bát Nhã Tâm Kinh là Sắc bất dị không, thực tại giả lậpthể không của nó là một. 
Vậy muốn đạt chơn tâm, hành giả thể nhập nơi thực tướng của sự vật. Đó là chân lý tối hậu, hay chân lý tự nó, là chơn ngã, chân như, căn bản trí, trí vô sư v.v...

*** Thắp sáng hiện hữu là thường thấy rõ ràng từng khoảnh khắc hiện tại tức là trực nhận sự vật vô thời không. Khi nhận ngay nơi tánh không của sự vật là ta đã giảm trừ tất cả khoảng không gian bên ngoài của sự vật, chỉ nắm bắt ngay cái dung thể không mà sự vật chiếm cứ trong không gian. Bề ngoài mà xét, thì giảm thiểu tối đa và không còn khoảng không gian nào trống ngoài sự vật cả : vô không gian. Ngay đó (hiện hữu) ta thường thấy rõ ràng sự vật, không có quá khứ và tương lai xen vào cái Biết của ta: vô thời gian.

Trong khoảnh khắc hiện tại là kẽ hở giữa quá khứ và tương lai, nói theo thiền Dzogchen. Ta kéo dài kẻ hở đó là thiền. Thắp sáng hiện hữuhành trình sinh hoạt bình thường với sự kéo dài cái khoảnh khắc hiện hữu ấy. 

Trên đường dài của thời gian, sự vật được ta trực nhận ngay thực tướng của nó trong khoảnh khắc hiện hữu từng khoảnh khắc với từng sự vật liên tục xảy ra và mỗi sự vật được hiện quán chỉ trong một khoảnh khắc mà thôi. Vì thời gian huyễn hóa sự vật, nên Tánh giác phải thể nhập thực tướng của sự đó ở từng giai đoạn khoảnh khắc hiện quán: vô thời không hay thực tại tuyệt đối.

Tuy nhiên, chúng ta có thể nắm bắt hiện hữu ở khoảnh khắc vô thời gian, thì chúng ta chỉ loại trừ các vọng tưởng

Như ta thấy cây gậy ngay khoảnh khắc hiện quán, chỉ có cây gậy mà thôi, không có gì ngoài cây gậy, đó là triệt tiêu tất cả các vọng tưởng khác. Trong trường hợp nầy ta nắm bắt chỉ có một thực tại giả lập duy nhứt, kết quả là giải thoát tất cả mọi vọng tưởng khác ra khỏi tâm ta.

Trong tiến trình thắp sáng hiện hữu nầy, ta cần giải tỏa cả thực tại giả lập bằng giác tĩnh nghĩa là, khi ta thấy cây gậy (căn trần), thì ta Biết ta thấy cây gậy. Thường biết do thấy (năng tri) và nhận Biết là Giác. Cho nên ta thấy cây gậy Biết là cây gậy. Nói một cách khác, Thắp sáng hiện hữu, tức dùng cái thấy và nhận Biết, hoặc giả, ngay cái thấy trực nhận thực tướng(thể không) của sự vật: vô thời không. 

Mặc dù trực nhận thể không của sự vật trong khoảnh khắc, là vượt khỏi thời không, chúng ta cần phải ưng vô sở trụ thì vô sở bất tại, nghĩa là không trụ vào thời không (sự vật hiện quán) là vượt khỏi thời không. Bất cứ chỗ nào trong khoảnh khắc đều nắm bắt thực tại; nên không có chỗ nào mà không có thực tại.Vậy Tánh Giác là Thiệt Hư Không nên bao la rộng khắp và vô giới hạn.

*** Thắp sáng hiện hữulối sống của một tâm trạng bình thường của những người biết nắm bắt thực tướng của sự vật. Nắm bắt thực tướng sự vật bao gồm cả ngũ uẩn. Những vọng tưởng hoặc cảm thọ như khổ đau vui buồn v.v... cũng phải thấy rõ ràng (chánh kiến) nó không có thực thể, từ đó giải quyết chúng theo tinh thần Trí Bát Nhã:

1). Một là dùng Trí phân tích, Sắc tức thị không,sắc chỉ là tổng hợp các chất khác (tứ đại) mà hợp thành nó. Trí phân tích là cái nhìn sự vật trong không gian với một điều kiện nào đó của thời gian. Thường sự vật được phân tích, người ta truy nguyên nguồn gốc xuất xứ của nó trong quá trình hình thành. Cho nên người ta thường trở lại quá khứ để tìm dấu vết các nhân tố hợp thành. Như cái bàn trước mắt chẳng hạn, ta phả lùi lại quá khứ xem lại thành phần tạo ra nó. Nào gỗ, nào đinh, nào sơn v.v...đã dùng kỹ thuật lắp ráp lại theo hình dáng cái bàn mà ta đang thấy đây.

2). Hai là Trí phân biệt, Sắc tức thị không Sắc tức thì biến thành không thật là nó nữa theo thời gian huyễn hóa.

Cái trí phân biệt là cái nhìn sự vật theo thời gian, người ta có thể dùng hai trí trên để giải tỏa nỗi buồn niềm vui, vọng tưởng ngay khi nó khởi lên,thì nhìn xem nó như là huyễn hóa không thật
Tri vọng hoặc tri huyễn lìa vọng hay huyễn ngay, là lối xa lìa mọi sự giả vọng rất hữu hiệu.

3). Ba là Trí vô phân biệt. Sắc không khác không.

Muốn hiển bày Tánh Giác, thì xem khổ đau hay vọng tưởng là những đối tượng hiện quán (như các sự vật giả lập), ta nên nắm bắt thực tướng cuả chúng. Cảm thọ, hay Tưởng, Thức được xem nhưthực tại giả lập. Thể Không của chúng chỉ hiển lộ trong khoảnh khắc hiện tại, tức là vô thời không. Vậy khi một vọng tưởng khởi lên, ngay đó ta xem nó là huyễn hóa (Trí phân biệt) hoặc nhìn thẳng thể trong sáng của nó, tức là thể Không (Trí vô phân biệt). Tức là tri nhận nơi thực tướng của vọng tưởng (ngũ uẩn giai không), thì vọng tưởng đó làm gì ảnh hưởng đến tâm trí ta.

--Tâm trạng bình thường của một một người tu hành và một người thường thế tục thì có khác nhau.Thiền sư Huệ Hải cũng có cùng một ý trên, khi được hỏi:

-Sự tu hành của Ngài như thế nào?
Sư bảo:
-Đói thì ăn, mệt thì ngủ.
Người hỏi bảo:
-Như vậy thì Ngài giống hệt như người thế gian. Người thế gian cũng đói thì ăn, mệt thì ngủ, Ngài có gì hơn đâu?
Sư đáp:
-Người thế gian đói mà không chịu ăn, đòi trăm thứ, mệt mà không chịu ngủ nghĩ trăm việc, khác nhau ở chỗ đó.

Khi đã nhận được bản lai diện mục rồi thì sự sống cũng diễn ra thường nhật với tinh thần tĩnh giác. Tĩnh giác hòa nhập trong tất cả mọi họat động hàng ngày trong sự sống. Lúc ăn Biết ăn, lúc làm việc thì phải sáng suốt, Biết rõ ràng và Làm chu đáo công việc được giao phó, lúc mệt thì ngủ, khi niệm Phật Biết niệm Phật, khi khán công án hay thoại đầu thì Biết khán, khi niệm chú cũng vậy, dùng tam mật của thân khẩu ý của mình hòa đồng vào tam mật của đức Đại Nhựt Như Lai hay trực nhận tánh không của thân khẩu ý tức là hòa nhập vào Pháp thân Phật. Tĩnh tâm cũng vậy,thời gian yên lặng để tâm tĩnh giác vào đề mục, vào tín điều, vào phúc âm, vào niềm tinhy vọng; ước nguyện ấy quyện thành một khối có uy lực khôn lường, thúc đẩy linh hồn chuyển hóa đến vương quốc của Thượng Đế.

*** Bình thường tâm không phải chỉ dành cho người tu hành, mà còn có thể áp dụng cho mọi người,mọi giới, mọi ngành nghề trong mọi sinh hoạt hàng ngày, khi con người đã biết Tĩnh Giác.
-Một nhân viên văn phòng hay cơ xưởng, chẳng hạn, làm việc một cách đúng đắn, có nghĩa là sử dụng khả năng thực sự của mình vào công việc với trực tâm -- trí không hư dối,tình cảm chơn thật, hành động (thẳng thắn) đạo đức. Thắp sáng cái hiện hữu, là chăm chú công việc hàng ngày, với năng xuất cao. Kết quả, thứ nhứt là mình giải thoát mọi phiền muộn của chính mình như không còn tham lam, so đo làm nhiều làm ít, suy nghĩ lương hướng của mình--là giải tỏa được tham lam vốn đem đến sân si. Thứ đến, công việc năng suất cao, tính thẳng thắn, không hư dối, gây ấn tượng tốt cho trưởng cơ quan, là giải tỏa được thành kiến của thượng cấp (chủ khách) nhìn sự sơ sót khuyết điểm của công nhân hay nhân viên. Khi một người làm việc gì mà dùng khả năngthực sự (Thắp sáng hiện hữu), tình cảm chân thành, tư tưởng trong sáng, thì mình không những giải thoát mọi phiền não do tham sân si vương vấn cho chính mình mà còn làm cho thượng cấp hay tha nhân có cái nhìn cảm phục; tức là giải tỏa mọi sự ràng buộc của thành kiến ngoại tại. Khi ta thắp sáng hiện hữu là ta đã tự giácgiác tha vậy.

*** Trong các thế giới tôn giáo, các nhà đạo học luôn luôn tìm ra phương pháp để nhận diện thực tại, nhứt là thực tại tuyệt đối, từ đó mới biết được cái đích mà hướng đến.Thấy đúng (Chánh Kiến), Nghĩ đúng (Chánh Tư Duy) cái thực tại nầy, tất phải dùng đến cái Trí. Để tránh những sơ sót sai lầm trong nhận thức, chúng ta cần phải dùng Chân Trí (Trí Bát Nhã Cứu Cánh) mới mong có hiệu quả vững chắc hầu nắm bắt cứu cánh. Hành trình đi đến Chân Nguyên, hay Thể Nhận thực tướng của vạn pháp, là Thắp Sáng Hiện Hữu, là Giải Thoát mọi ràng buộc nhân duyên chằng chịt của nhị nguyên mà đến đích ĐẠO. 

Thấy được Thực Tướng của vạn hữu, duy trì cái thực tại ấy, và hành sử đúng trong mọi sinh hoạt hàng ngày, là lối Kiến Thiền Hành, Tức Khắc Khai Ngộ Hiện Đời Giải Thoát, Trực Tâm, Hiện Tại Tức Bồ Đề, Giải Thoát Tức Thì.

Đó là pháp Thắp Sáng Hiện Hữu với Tâm Bình Thường trên đường dài của cuộc sống trong tiến trình Khai Thị Ngộ Nhập Chí Đạo.

PHỤ TRANG

SỐNG ĐẠO

I.- VÀO ĐẠO 
Mọi sự xung quanh luyến bởi tình
Tu hành cốt chí đặng tâm minh
An nhiên tự tại tình không động
Pháp, giới là gì hởi đạo huynh!

II. TỰ TẠO: VÔ NGẠO
Thường nhật bình tâm tức thị thiền
Công phu hé thấy cảnh linh thiêng
Hãy đừng cao ngạo cho là ngộ
Vọng thức sanh ra mối ảo thiền.

III. TỰ TRI: VÔ NGÃ
Trí tình thể dụng của tâm viên
Chấp ngã làm chi lắm lụy phiền
Tình thức lầm mê tâm tánh giả
Cái thân ngoại vật cảnh thần tiên

IV.- TỰ TẠI: VÔ NGẠI
Sự vật dịch lưu khó chận dừng
Chơn không thể nhập sống ung dung
Thức tình không lập tâm trong sáng
Vật vật, tâm tâmngại ngùng.

V. TINH TẤN
Huân tập dày công nghiệp thức tiêu
Hành thiền rốt ráo tự tâm điều
Sắc không, không sắc tâm vô ngại
Quả trỗ tịch về cảnh thoát siêu.

VI. BUÔNG XÃ
Ý thức ưa duyên cảnh mỹ miều
Danh tình lợi xã, ý tiêu diêu
Công phu tinh tấn tiềm năng phát
Huân tập thâm sâu tiềm thức tiêu
Thanh thản tâm tư vô thức tướng
An nhàn trí não hữu tâm điều
Trí tình giả tướng đừng tầm kiếm
Thoát kiếp luân hồi nghiệp quả tiêu.

 TĨNH LẶNG 
Tĩnh đi thân bình thản 
Tĩnh đứng khẫu bặt lời 
Lặng nằm tâm tận xã 
Thoát ngồi ý lặng yên 
Lặng thấy mùa xuân đến 
Lặng nghe nắng hạ về 
Tĩnh thức ao thu lạnh 
Mặc nhìn gió đông sang 

MẶC THOÁT
Nắng hạ mùa sen trổ
Thu thủy cá thảnh thơi
Hoa xuân đua sắc nở
Gió đông thổi lặng ngồi
Bốn mùa tám tiết đổi
Giếng thẳm bóng trăng soi
Một mình thanh thản sống
Mặc mặc thời gian trôi

HÀNH THIỀN
Thiền chính không có lời
Như lai tam muội hiện
Tĩnh lặng thường hành: Giải
Mặc mặc như như: Thoát

TĨNH MẶC
08- 12- 86

LÊN NÚI
Tay không chạm hư không
Chân không đạp đất không
Lên núi THẤY không mệt
BIẾT mệt ở đâu? Không!

TĨNH MẶC
_Kỷ niệm ngày 21 giêng Mậu Thìn, hẹn
cùng thầyThông Giác lên thăm thầy Sáu, 
nhưng Thông Giác đã lên trước 1 ngày.

SỐNG THỰC
Dòng đời đôi mé thong dong sống.
Nẻo đạo trung không tĩnh lặng hành.
Khởi định đều không thực tướng sanh.
Không tâm không pháp tâm thanh tịnh

TĨNH MẶC
15- 2- 88

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10401)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7727)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
(Xem: 8540)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
(Xem: 10126)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
(Xem: 18542)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14542)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8840)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8920)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8217)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 9011)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14194)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8462)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15291)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13162)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7818)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16681)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15540)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8990)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7935)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7108)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11274)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14287)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10482)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20469)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8799)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9294)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 24136)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12678)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7818)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16263)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15621)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8753)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7648)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14620)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9314)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15523)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15155)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16646)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13484)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15331)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7845)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7508)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7353)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 9021)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 14043)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 8033)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7852)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15822)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10271)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7711)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7529)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12812)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7870)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8125)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 14078)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7301)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9209)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9680)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13125)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7612)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant