Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kết luận

02 Tháng Chín 201100:00(Xem: 9960)
Kết luận

THỰC TẠI VÀ CHÍ ĐẠO
Phổ Nguyệt, Ph.D.

KẾT LUẬN

 Khi Thấy (Chánh Kiến) mọi sự vật đều giả lập, thì tiến trình tri thức đúng về cái nhận thức sai lầm của chủ khách đưa chúng ta đến giác ngộ. Nhận thức sai lầm của nhị nguyên đối đãinhận thức căn trầncăn trần đều là giả lập, như đã giải thích, thì nhận thức ấy làm sao đúng. Cho nên Tánh Giác là thể nhận nơi thực tướng của sự vật. Thực tướng của sự vật là Tánh Không. Tánh Giác là Thiệt Hư Không; sự vật mà Tâm thể nhập nơi dung thể Không của nó cũng là Hư Không. Vạn vật đồng nhất thể (tâm lẫn vật) là đồng thể Không. Cho nên Tánh Giác (Biết) là trực nhận nơi thể Không của sự vật.

Chúng ta có thể thực hiện Tánh Giác bằng cách dùng Tâm (Biết do trực nhận không qua ý thức của căn trần) để BIẾT CÁI BIẾT CỦA CĂN TRẦN.

Cái biết của căn trần (chủ khách) là năng sở. Tánh biết của năng sở cũng là Tánh Không nhưng giới hạn ở các căn. Cho nên cái Biết của Tâm (Tánh Giác) là Hư Không bao la vô giới hạn hòa nhập tánh không của sự vật (Dung thể không hay tướng không của đối tượng) biến thành một khối vô phân biệt của Hư Không. Đó là thể nhập chốn tịch tĩnh y nhiên, hay thực tế mà nói, Biết cái mình biết là Tánh Giác. Biết do Tâm (Tánh Giác) cái mình biết do căn trần (chủ khách hay năng sở). Tiến trình nầy làm cho năng sở song vong. Tánh Giác vượt khỏi năng sở.

Thiền sư Duy Tín đời Tống nói: Trước ba mươi năm, tôi thấy núi sông là núi sông. Sau gặp thiện hữu tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông không phải là núi sông. Nay được chỗ dứt sạch ( thể nhập nơi tịch tĩnh y nhiên) thấy núi sông là núi sông.

Trước ba mươi năm chưa tu, dùng trí phân tích (thường trí) của căn trần, chủ khách thì thấy núi sông là núi sông. Sau vào tu, gặp thiện tri thức chỉ dạy thì dùng trí phân biệt (thời gian huyễn hóa sự vật) thì thấy núi sông không phải là núi sông thật như ta vừa thấy nữa. Vì trong một sát na khoảnh khắc núi sông ta đang thấy không còn thật là nó nữa, đã huyễn hóa rồi, đã thêm 1 sát na tuổi. Nhìn trên khía cạnh thời gian thì nó không còn thật là nó nữa, đã biến thái rồi. Khi thể nhập vào chốn tịch tĩnh y nhiên, tức là trực nhận nơi thực tướng của sự vật, ngay khi thấy núi sông thì Biết (nhận thức) cái mình biết là núi sông. Đó là thực Biết hay Biết cái thực tướng của núi sông.

*** Các pháp tu dùng phương tiện để hàng phục vọng tâm, triệt tiêu tất cả các vọng tưởng, nghĩa là giảm trừ các vọng tưởng cho đến đổi dường như không còn vọng tưởng, nhưng kỳ thực chỉ còn có một vọng tưởng duy nhất mà thôi đó là nhứt niệm vô minh. Tiến trình giảm trừ đến cực tiểu e # 0 (gần bằng số không, nhưng chưa phải là không).

Nhứt niệm có công năng phi thường, xuyên qua lớp mây mù dày đặc của thế giới vọng tưởng, mà đến một thế giới sáng lạng sẵn dành cho hành giả sử dụng những phương tiện tương ứng. Vì khi hành giả tập trung vào một ý tưởng hay một ý niệm nào thì ý tưởng ý niệm đó sẽ sáng tỏ vô cùng. Thế giới mà nhứt niệm đạt được như Tây Phương cực lạc, A Di Đà Vô Lượng Quang, Thiên Đàng v.v...Từ thế giới công ước đó, hành giả có đủ năng lực thể nhập vào thế giới vô phân biệt, tuyệt đối.

-- Một thí dụ về công năng của nhứt niệm mà người thế gian dùng để đạt đến mục đích nào đó của họ, đó là dùng sức mạnh của tư tưởng để nghiên cứu khoa học chẳng hạn. Còn như các pháp thiền quán tưởng, công án hay thoại đầu, ngay cả niệm Phật dùng thân khẩu ý (tay lần chuỗi, miệng niệm Phật, ý nhận ngay tánh nghe), hoặc niệm chú cũng dùng thân khẩu ý (tay bắt ấn, miệng niệm chú, ý quán tưởng) cũng là đi đến nhứt niệm. Riêng về niệm Phật và niệm chú dùng tam nghiệp tập trung đến nhứt niệm thì công năng đó mạnh mẻ phi thường, gấp ba lần với ý tưởng, vì quá kiên cố, không có kẻ hở để cho một niệm khởi nào xen vào.

--Chẳng hạn,niệm chú, theo Mật Giáo Thậm Tâm Nội Nghĩa, Những phương pháp tu tập liên quan đến việc đầu tiên là là hành giả phải chăm chú nhứt tâm nhìn vào biểu tượng cho đến khi biểu tượng có thể ảnh hiện rõ ràngvững chắc trong tâm. Kế đến, hai tay kiết ấn Nhập vào, hành giả quán tưởng hình ảnh kia trong tâm (tại trái tim). (tr.153)

***Rõ ràng cách niệm chú chỉ là sự tập trung cao độ của thân nhãn nhĩ ý thôi. Đã trình bày trước, lục căn không có thực thể, lục trần (biểu tượng) cũng vậy, thì lục thức (ý thức) làm sao thoát khỏi đường sanh diệt. Ngay quan niệm tức thân thành Phật ngay xác thân còn sống thì không có trái lẻ vì thành Phậtgiác ngộ Niết Bàn, đạt được Tánh Giác, là sự sáng suốt tuyệt đối.Tánh Giác hay Phật Tánh không sanh không diệt, chớ thân thành Phật mà còn sanh diệt vô thường, rồi ngày kia sẽ chết, làm sao gọi Thân là Phật được! Cái bất sanh bất diệtchân lý tuyệt đối chỉ hiễn bày trong tâm giác ngộ mà thôi: Tánh Giác hay Pháp Thân hay gọi là Phật. Còn các căn hay trần (thân xác) chỉ là phương tiện (chiếc thuyền) chớ không thể trở thành Phật, (Pháp Thân, Tánh Giác, Cứu Cánh) được.

-- Một thí dụ khác, một đơn vị (a) gồm có thân xác và tinh thần như chiếc bình không cũng gồm có cái võ bình trong chứa không khí. Trong đơn vị (a) có thể nói gồm có hai thành phần khác nhau, chớ không thể nói hai thành phần ở chung cùng một đơn vịđồng nhứt. Đồng nhứt là cùng một thể hòa hợp nhau. Nhắc lại cái bình là dụng cụ chứa không khí; khi cái bình bị vỡ (vô thường), thì không khí trong bình hòa tan vào hư không. Hư không thì không sanh không diệt bao la vô giới hạn. Cũng như thế, thân xác thì vô thường (sanh già bịnh tử), còn tâm thì bất sanh bất diệt. Do đó muốn giải thoát khỏi cảnh vô thường khổ đau phiền não của thân huyễn hóa để nắm bắt cái pháp thân bất sanh bất diệt là chỉ có tri thức đúng (giác ngộ) cái nhận thức sai lầm của căn trần chủ khách đối đãi của thế giới tương đốithể nhập thực tướng Niết Bàn Tuyệt Đối.

Thực tế, cái huyễn hóa không thể nghĩ bàn (không còn suy nghĩ phân biệt gì ngoài biểu tương giả lập) được tập trung cao độ đến đâu đi nữa cũng chỉ là huyễn hóa mà thôi. Tuy vậy cái huyễn hóa của biểu tượng nầy trở nên quá rõ ràng, vì sự tập trung cao độ như thế tạo thành các ý thức trùng trùng duyên khởi của chỉ một biểu tượng trong tâm; đó là ký ức quá mẫn của một tâm trạng phi thường của một chúng sanh đặc biệt.

Theo Tâm lý học, ảo giác đó quây quần trong tâm trí mãi biến thành hai hậu quả như kể ra từ trước.

--Trong kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, xem thần chú là một biểu tượng giả lập, phải dùng chân trí (Quán tự tại) nhận ngay thực tướng của nó. Tánh Không của thần chú hiển lộ qua quán tự tại nghĩa là dùng Tánh Giác (Thiệt Hư không) thể nhập thể không của thần chú, mới vượt khỏi mọi nhân duyên chằng chịt, khổ đau, luân hồi của thế giới tương đối.

Nói cách khác, niệm Phật, niệm chú, hay khán công án là nhằm mục đích đạt đến cứu cánh của một thực tại công ước với công năng to lớn, là quá sáng suốt, hội nhập vào thế giới vô lượng quang hay thế giới của đức Đại Nhựt Như Lai.

--Phương tiện biện minh cho cứu cánh là lịch trình nhân quả được Tâm lý học giải thích như sau:

-Ý tưởng mà một người có được về kinh nghiệm tương lai là do kinh nghiệm hiện tại của hắn dẫn đến đó.
(The idea that a person has about his future experience guides his present experiences in that direction.
(Trancewwork, p. 93)

Đó là vai trò của khả năng dự tri về kinh nghiệm. Loại quá trình nầy gọi là chu trình định hướng trong địa hạt của lý thuyết hệ thống phân loại.

*** Còn các pháp bổn Bổn như vô pháp (Tánh Giác) dường như không có pháp nào, tự nhiên, nhẹ nhàng, thoải mái. Vậy điều kiện cần và đủ để đạt Tánh Giác là:
-Cần trực nhận được thực tướng sự vật (vô không gian); và
-Đủ là không bám víu vào sự vật đó (vô thời gian). Cũng giống như hàng phục vọng tâm và an trụ tâm tronh kinh Kim Cang, hay trong Bát Nhã Tâm Kinh là Sắc bất dị không, thực tại giả lậpthể không của nó là một. 
Vậy muốn đạt chơn tâm, hành giả thể nhập nơi thực tướng của sự vật. Đó là chân lý tối hậu, hay chân lý tự nó, là chơn ngã, chân như, căn bản trí, trí vô sư v.v...

*** Thắp sáng hiện hữu là thường thấy rõ ràng từng khoảnh khắc hiện tại tức là trực nhận sự vật vô thời không. Khi nhận ngay nơi tánh không của sự vật là ta đã giảm trừ tất cả khoảng không gian bên ngoài của sự vật, chỉ nắm bắt ngay cái dung thể không mà sự vật chiếm cứ trong không gian. Bề ngoài mà xét, thì giảm thiểu tối đa và không còn khoảng không gian nào trống ngoài sự vật cả : vô không gian. Ngay đó (hiện hữu) ta thường thấy rõ ràng sự vật, không có quá khứ và tương lai xen vào cái Biết của ta: vô thời gian.

Trong khoảnh khắc hiện tại là kẽ hở giữa quá khứ và tương lai, nói theo thiền Dzogchen. Ta kéo dài kẻ hở đó là thiền. Thắp sáng hiện hữuhành trình sinh hoạt bình thường với sự kéo dài cái khoảnh khắc hiện hữu ấy. 

Trên đường dài của thời gian, sự vật được ta trực nhận ngay thực tướng của nó trong khoảnh khắc hiện hữu từng khoảnh khắc với từng sự vật liên tục xảy ra và mỗi sự vật được hiện quán chỉ trong một khoảnh khắc mà thôi. Vì thời gian huyễn hóa sự vật, nên Tánh giác phải thể nhập thực tướng của sự đó ở từng giai đoạn khoảnh khắc hiện quán: vô thời không hay thực tại tuyệt đối.

Tuy nhiên, chúng ta có thể nắm bắt hiện hữu ở khoảnh khắc vô thời gian, thì chúng ta chỉ loại trừ các vọng tưởng

Như ta thấy cây gậy ngay khoảnh khắc hiện quán, chỉ có cây gậy mà thôi, không có gì ngoài cây gậy, đó là triệt tiêu tất cả các vọng tưởng khác. Trong trường hợp nầy ta nắm bắt chỉ có một thực tại giả lập duy nhứt, kết quả là giải thoát tất cả mọi vọng tưởng khác ra khỏi tâm ta.

Trong tiến trình thắp sáng hiện hữu nầy, ta cần giải tỏa cả thực tại giả lập bằng giác tĩnh nghĩa là, khi ta thấy cây gậy (căn trần), thì ta Biết ta thấy cây gậy. Thường biết do thấy (năng tri) và nhận Biết là Giác. Cho nên ta thấy cây gậy Biết là cây gậy. Nói một cách khác, Thắp sáng hiện hữu, tức dùng cái thấy và nhận Biết, hoặc giả, ngay cái thấy trực nhận thực tướng(thể không) của sự vật: vô thời không. 

Mặc dù trực nhận thể không của sự vật trong khoảnh khắc, là vượt khỏi thời không, chúng ta cần phải ưng vô sở trụ thì vô sở bất tại, nghĩa là không trụ vào thời không (sự vật hiện quán) là vượt khỏi thời không. Bất cứ chỗ nào trong khoảnh khắc đều nắm bắt thực tại; nên không có chỗ nào mà không có thực tại.Vậy Tánh Giác là Thiệt Hư Không nên bao la rộng khắp và vô giới hạn.

*** Thắp sáng hiện hữulối sống của một tâm trạng bình thường của những người biết nắm bắt thực tướng của sự vật. Nắm bắt thực tướng sự vật bao gồm cả ngũ uẩn. Những vọng tưởng hoặc cảm thọ như khổ đau vui buồn v.v... cũng phải thấy rõ ràng (chánh kiến) nó không có thực thể, từ đó giải quyết chúng theo tinh thần Trí Bát Nhã:

1). Một là dùng Trí phân tích, Sắc tức thị không,sắc chỉ là tổng hợp các chất khác (tứ đại) mà hợp thành nó. Trí phân tích là cái nhìn sự vật trong không gian với một điều kiện nào đó của thời gian. Thường sự vật được phân tích, người ta truy nguyên nguồn gốc xuất xứ của nó trong quá trình hình thành. Cho nên người ta thường trở lại quá khứ để tìm dấu vết các nhân tố hợp thành. Như cái bàn trước mắt chẳng hạn, ta phả lùi lại quá khứ xem lại thành phần tạo ra nó. Nào gỗ, nào đinh, nào sơn v.v...đã dùng kỹ thuật lắp ráp lại theo hình dáng cái bàn mà ta đang thấy đây.

2). Hai là Trí phân biệt, Sắc tức thị không Sắc tức thì biến thành không thật là nó nữa theo thời gian huyễn hóa.

Cái trí phân biệt là cái nhìn sự vật theo thời gian, người ta có thể dùng hai trí trên để giải tỏa nỗi buồn niềm vui, vọng tưởng ngay khi nó khởi lên,thì nhìn xem nó như là huyễn hóa không thật
Tri vọng hoặc tri huyễn lìa vọng hay huyễn ngay, là lối xa lìa mọi sự giả vọng rất hữu hiệu.

3). Ba là Trí vô phân biệt. Sắc không khác không.

Muốn hiển bày Tánh Giác, thì xem khổ đau hay vọng tưởng là những đối tượng hiện quán (như các sự vật giả lập), ta nên nắm bắt thực tướng cuả chúng. Cảm thọ, hay Tưởng, Thức được xem nhưthực tại giả lập. Thể Không của chúng chỉ hiển lộ trong khoảnh khắc hiện tại, tức là vô thời không. Vậy khi một vọng tưởng khởi lên, ngay đó ta xem nó là huyễn hóa (Trí phân biệt) hoặc nhìn thẳng thể trong sáng của nó, tức là thể Không (Trí vô phân biệt). Tức là tri nhận nơi thực tướng của vọng tưởng (ngũ uẩn giai không), thì vọng tưởng đó làm gì ảnh hưởng đến tâm trí ta.

--Tâm trạng bình thường của một một người tu hành và một người thường thế tục thì có khác nhau.Thiền sư Huệ Hải cũng có cùng một ý trên, khi được hỏi:

-Sự tu hành của Ngài như thế nào?
Sư bảo:
-Đói thì ăn, mệt thì ngủ.
Người hỏi bảo:
-Như vậy thì Ngài giống hệt như người thế gian. Người thế gian cũng đói thì ăn, mệt thì ngủ, Ngài có gì hơn đâu?
Sư đáp:
-Người thế gian đói mà không chịu ăn, đòi trăm thứ, mệt mà không chịu ngủ nghĩ trăm việc, khác nhau ở chỗ đó.

Khi đã nhận được bản lai diện mục rồi thì sự sống cũng diễn ra thường nhật với tinh thần tĩnh giác. Tĩnh giác hòa nhập trong tất cả mọi họat động hàng ngày trong sự sống. Lúc ăn Biết ăn, lúc làm việc thì phải sáng suốt, Biết rõ ràng và Làm chu đáo công việc được giao phó, lúc mệt thì ngủ, khi niệm Phật Biết niệm Phật, khi khán công án hay thoại đầu thì Biết khán, khi niệm chú cũng vậy, dùng tam mật của thân khẩu ý của mình hòa đồng vào tam mật của đức Đại Nhựt Như Lai hay trực nhận tánh không của thân khẩu ý tức là hòa nhập vào Pháp thân Phật. Tĩnh tâm cũng vậy,thời gian yên lặng để tâm tĩnh giác vào đề mục, vào tín điều, vào phúc âm, vào niềm tinhy vọng; ước nguyện ấy quyện thành một khối có uy lực khôn lường, thúc đẩy linh hồn chuyển hóa đến vương quốc của Thượng Đế.

*** Bình thường tâm không phải chỉ dành cho người tu hành, mà còn có thể áp dụng cho mọi người,mọi giới, mọi ngành nghề trong mọi sinh hoạt hàng ngày, khi con người đã biết Tĩnh Giác.
-Một nhân viên văn phòng hay cơ xưởng, chẳng hạn, làm việc một cách đúng đắn, có nghĩa là sử dụng khả năng thực sự của mình vào công việc với trực tâm -- trí không hư dối,tình cảm chơn thật, hành động (thẳng thắn) đạo đức. Thắp sáng cái hiện hữu, là chăm chú công việc hàng ngày, với năng xuất cao. Kết quả, thứ nhứt là mình giải thoát mọi phiền muộn của chính mình như không còn tham lam, so đo làm nhiều làm ít, suy nghĩ lương hướng của mình--là giải tỏa được tham lam vốn đem đến sân si. Thứ đến, công việc năng suất cao, tính thẳng thắn, không hư dối, gây ấn tượng tốt cho trưởng cơ quan, là giải tỏa được thành kiến của thượng cấp (chủ khách) nhìn sự sơ sót khuyết điểm của công nhân hay nhân viên. Khi một người làm việc gì mà dùng khả năngthực sự (Thắp sáng hiện hữu), tình cảm chân thành, tư tưởng trong sáng, thì mình không những giải thoát mọi phiền não do tham sân si vương vấn cho chính mình mà còn làm cho thượng cấp hay tha nhân có cái nhìn cảm phục; tức là giải tỏa mọi sự ràng buộc của thành kiến ngoại tại. Khi ta thắp sáng hiện hữu là ta đã tự giácgiác tha vậy.

*** Trong các thế giới tôn giáo, các nhà đạo học luôn luôn tìm ra phương pháp để nhận diện thực tại, nhứt là thực tại tuyệt đối, từ đó mới biết được cái đích mà hướng đến.Thấy đúng (Chánh Kiến), Nghĩ đúng (Chánh Tư Duy) cái thực tại nầy, tất phải dùng đến cái Trí. Để tránh những sơ sót sai lầm trong nhận thức, chúng ta cần phải dùng Chân Trí (Trí Bát Nhã Cứu Cánh) mới mong có hiệu quả vững chắc hầu nắm bắt cứu cánh. Hành trình đi đến Chân Nguyên, hay Thể Nhận thực tướng của vạn pháp, là Thắp Sáng Hiện Hữu, là Giải Thoát mọi ràng buộc nhân duyên chằng chịt của nhị nguyên mà đến đích ĐẠO. 

Thấy được Thực Tướng của vạn hữu, duy trì cái thực tại ấy, và hành sử đúng trong mọi sinh hoạt hàng ngày, là lối Kiến Thiền Hành, Tức Khắc Khai Ngộ Hiện Đời Giải Thoát, Trực Tâm, Hiện Tại Tức Bồ Đề, Giải Thoát Tức Thì.

Đó là pháp Thắp Sáng Hiện Hữu với Tâm Bình Thường trên đường dài của cuộc sống trong tiến trình Khai Thị Ngộ Nhập Chí Đạo.

PHỤ TRANG

SỐNG ĐẠO

I.- VÀO ĐẠO 
Mọi sự xung quanh luyến bởi tình
Tu hành cốt chí đặng tâm minh
An nhiên tự tại tình không động
Pháp, giới là gì hởi đạo huynh!

II. TỰ TẠO: VÔ NGẠO
Thường nhật bình tâm tức thị thiền
Công phu hé thấy cảnh linh thiêng
Hãy đừng cao ngạo cho là ngộ
Vọng thức sanh ra mối ảo thiền.

III. TỰ TRI: VÔ NGÃ
Trí tình thể dụng của tâm viên
Chấp ngã làm chi lắm lụy phiền
Tình thức lầm mê tâm tánh giả
Cái thân ngoại vật cảnh thần tiên

IV.- TỰ TẠI: VÔ NGẠI
Sự vật dịch lưu khó chận dừng
Chơn không thể nhập sống ung dung
Thức tình không lập tâm trong sáng
Vật vật, tâm tâmngại ngùng.

V. TINH TẤN
Huân tập dày công nghiệp thức tiêu
Hành thiền rốt ráo tự tâm điều
Sắc không, không sắc tâm vô ngại
Quả trỗ tịch về cảnh thoát siêu.

VI. BUÔNG XÃ
Ý thức ưa duyên cảnh mỹ miều
Danh tình lợi xã, ý tiêu diêu
Công phu tinh tấn tiềm năng phát
Huân tập thâm sâu tiềm thức tiêu
Thanh thản tâm tư vô thức tướng
An nhàn trí não hữu tâm điều
Trí tình giả tướng đừng tầm kiếm
Thoát kiếp luân hồi nghiệp quả tiêu.

 TĨNH LẶNG 
Tĩnh đi thân bình thản 
Tĩnh đứng khẫu bặt lời 
Lặng nằm tâm tận xã 
Thoát ngồi ý lặng yên 
Lặng thấy mùa xuân đến 
Lặng nghe nắng hạ về 
Tĩnh thức ao thu lạnh 
Mặc nhìn gió đông sang 

MẶC THOÁT
Nắng hạ mùa sen trổ
Thu thủy cá thảnh thơi
Hoa xuân đua sắc nở
Gió đông thổi lặng ngồi
Bốn mùa tám tiết đổi
Giếng thẳm bóng trăng soi
Một mình thanh thản sống
Mặc mặc thời gian trôi

HÀNH THIỀN
Thiền chính không có lời
Như lai tam muội hiện
Tĩnh lặng thường hành: Giải
Mặc mặc như như: Thoát

TĨNH MẶC
08- 12- 86

LÊN NÚI
Tay không chạm hư không
Chân không đạp đất không
Lên núi THẤY không mệt
BIẾT mệt ở đâu? Không!

TĨNH MẶC
_Kỷ niệm ngày 21 giêng Mậu Thìn, hẹn
cùng thầyThông Giác lên thăm thầy Sáu, 
nhưng Thông Giác đã lên trước 1 ngày.

SỐNG THỰC
Dòng đời đôi mé thong dong sống.
Nẻo đạo trung không tĩnh lặng hành.
Khởi định đều không thực tướng sanh.
Không tâm không pháp tâm thanh tịnh

TĨNH MẶC
15- 2- 88

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11481)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12650)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12266)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11043)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10921)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13372)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11794)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13672)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11913)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11183)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12209)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12412)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20606)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12438)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12466)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11729)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11604)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22441)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13587)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29699)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16757)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12017)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16853)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12084)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17936)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12654)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13179)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14772)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22637)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10595)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14056)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13879)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13728)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13879)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13950)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14842)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13863)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18428)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22812)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15406)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17332)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14273)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12595)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11180)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13218)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13114)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18808)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17188)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13518)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12928)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14706)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14665)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15882)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13524)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27448)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13255)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16737)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant