Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Trào lưu tư tưởng Phật Giáo Ấn Ðộ

09 Tháng Mười 201100:00(Xem: 12316)
04. Trào lưu tư tưởng Phật Giáo Ấn Ðộ

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 1: ĐẠI CƯƠNG

Trào lưu tư tưởng PG Ấn Ðộ

Khi đức Thế Tôn còn tại tiền, giáo lý của Ngài hết sức thực tế, dạy cho mỗi một giống dân Ngài bảo phải nói tiếng nói của giống dân ấy. Có người xin ghi chép lời giảng của Ngài bằng chữ Phạn, Ngài từ chối không phải vì chữ ấy diễn tả hoa mỹ, khúc chiết, nhưng có lẽ Ngài muốn giữ cho nó được phổ biến rộng rải trong quảng đại quần chúng. Ðối với những câu hỏi về vấn đề cao siêu, đức Phật giữ thái độ im lặng, những yếu tố đó đã dẫn tới một nền triết học Phật Giáo siêu việt sau nầy.

Chúng ta biết rằng, ở thời đại tối sơ, con người sợ sệt trước những điều kỳ bí, vĩ đại trong thiên nhiên, người ta phải dùng thần thoại để giải thích những hiện tượng ấy, trước tiên người ta tin chỉ có một vị thần, đó là thời kỳ độc thần giáo, dần dần người ta tin thêm vài vị thần khác như thần mưa, thần gió, thần núi, thần sông, đó là thời kỳ đa thần giáo, dần dần vật chi người ta cũng tin là có thần cả, đó là thời kỳ phiếm thần giáo.

Ở một vùng sông dài, núi cao hùng vĩ làm cho đất nước Ấn Ðộ sớm đã có tín ngưỡng, theo kinh Vệ Ðà (khoảng 1800 năm trước Công nguyên), đó là những bài thánh ca, được nhiều người đóng góp sáng tạo dưới hình thức vô danh, ca tụng những vị thần linh, một hình thái sinh hoạt tinh thần thời cổ đại của người Ấn, cũng giống những dân tộc khác, như Phan Văn Hùm đã viết: ''Từ xưa đến nay, tư tưởng của nhân loại hễ khai phát ra là tìm đường cắt nghĩa hiện tượng quanh mình trước hết, rồi sau tất bước tới một bước nữa mà khảo sát thật tại (le réel). Bao giờ cho thấy được mối quan hệ giữa hiện tượng và thật tại thì mới bằng lòng. Cắt nghĩa chi, có được không? Con người vẫn suy nghĩ về chỗ ấy luôn, thành ra trong triết học lại thêm một vấn đề quan trọng nữa, là vấn đề nhận thức cùng giới hạn của nhận thức. Triết học chỉ quanh quẩn theo mấy vấn đề trên đó, mà không biết bao giờ nó cáo thành''.

Cho đến khi tư tưởng đã tiến hóa, con người có một nghi vấn lớn: - Căn bản của vũ trụ là đâu? Vào thời đó Ấn Ðộ đã có Kỳ Na Giáo, Lục sư ngoại đạo và Sáu phái triết học - cũng như các triết gia Tây Phương sau này - có phái cho bản thể của vũ trụ là nước, có phái cho là đất, có phái cho là lửa... còn Bà La Môn Giáo đã chuyển thành Ấn Ðộ Giáo, từ kinh Vệ Ðà tiến đến kinh Áo Nghĩa Thư (Upanisad: sáng tác từ năm 750 đến năm 550 trước Công nguyên), cho đó là Ðại Ngã (Brahman): Vạn vật đều do Ðại ngã sinh ra, lúc trụ con người là Tự ngã (Atman) có Ðại ngã ẩn trong ấy, khi diệt trở về với Ðại ngã.

Gần như để trả lời cho vấn đề nầy, khi đức Phật đối diện với câu hỏi về Tự Tánh của đạo sĩ lang thang Vacchagotta :

- Kính thưa Gotama, không có tự tánh hay sao ?

Ðức Phật ngồi yên lặng, thấy không trả lời Vacchagotta lại hỏi tiếp:

- Sao ? Kính thưa Gotama, có tự tánh hay sao ?

Phật lại cũng ngồi yên lặng.

Sự im lặng đó, đức Phật đã giải thích trong khi Ngài ngồi nghỉ dưới khóm cây Simsapà, gần thành Kosambì, Ngài vói tay hốt nắm lá, cầm trong bàn tay và hỏi:

- Này các Tỳ kheo, cái nào nhiều hơn, nắm lá Simsapà trong tay ta, hay đám lá trên các cây kia ?

- Bạch Thế tôn, chỉ có ít lá trong tay Thế Tôn, còn trên cây kia thật nhiều lá.

- Cũng vậy, nầy các Tỳ kheo, có rất nhiều điều ta đã khám phá, nhiều hơn hẳn những gì ta đã khai thị. Chỉ có một ít điều ta đã khai thị mà thôi, và tại sao ta đã không khai thị các điều kia? Bởi vì chúng không có lợi ích, không phục vụ đời Phạm hạnh, không đưa đến yếm ly, ly tham, an tịnh, thắng trí, Giác ngộ, Niết Bàn

(Tương Ưng Bộ V, Chương 12 Rừng Simsapà)

Phải chăng vì sự yên lặng đó của Phật, mà khoảng 100 năm sau khi Ngài nhập diệt, những thắc mắc siêu hình, không lợi ích cho việc tu học, nhưng nhiều người đã lập thuyết bằng những luận thư, góp phần vào việc phát triển triết học phật giáo phong phú và đa dạng.

Chúng ta biết rằng sau khi Phật Nhập diệt khoảng 100 năm, 700 vị Tỳ kheo đã họp tại Phệ Xá Lị (Vesali) để phán quyết về 10 hành vi do một nhóm tỳ kheo Tỳ Xá Lỵ (Viji) chủ trương, vì sự phán quyết của 10 vị Trưởng Lão đại diện, không làm hài lòng cho những Tỳ Kheo khác, nên họ đã tìm một địa điểm khác họp riêng cũng để Kiết Tập Kinh diển là sự phân chia giáo đoàn thành Thượng Tọa bộ và Ðại chúng bộ.

Do chủ trương tự do nên Ðại Chúng bộ lưu trú nước Ương Quật Ðà La (Angottara), phía Bắc thành Vương Xá, trong khi luận bàn về kinh điển, ý kiến tương phản nhau, nên phân ra 2 phái là Nhất Thuyết bộ chủ trương ''Tam thế chư pháp giả danh vô thể '', Thuyết Xuất Thế bộ chủ trương ''tục vọng, chân thực'', đồng thời một nhóm khác cho rằng Kinh tạng, Luật tạngphương tiện giả thiết của Thế Tôn, duy có Luận Tạng giải thích được nghĩa lý chân thật, rõ ràng nên lập thành Kê Dẫn bộ.

Sau đó khoảng 200 năm sau khi Phật nhập diệt, có La Hán Từ Bi Y (Yàjnavalkya), tương truyền rằng trước khi đức Thế Tôn nhập diệt, ông ta vào ẩn tu trong Tuyết Sơn, nay xuất thế, ông cho rằng Thượng Tọa và Ðại Chúng bộ chỉ tham cứu thô thiển giáo lý của đức Thế Tôn, do đó cần phải nghiên cứu ý nghĩa thâm sâu vi diệu, ông thành lập Ða Văn bộ.

Lại có một nhóm khác là Thuyết Giả bộ họ cho rằng thánh giáo có nhiều cấp độ, do đức Thế Tôn giả lập thuyết, nên trong ba tạng có đủ chân đế, tục đế, nói chung là họ chủ trương ''chân giả tịnh hữu'' .

Sau cùng có một nhóm ở vùng núi Andhra,họ chủ trương coi trọng việc cúng dường các tháp thờ Xá Lợi Phật (Caityas), nên có tên là Chế Ða Sơn bộ. Họ đem ngũ sự của Ðại Thiên ra thảo luận, ý kiến bất đồng, nên lại chia ra một nhóm trú ngụ ở phía Tây gọi là Tây Sơn Trụ bộ, một nhóm trú ngụ ở phía Bắc gọi là Bắc Sơn Trụ bộ.

Mặc dù bảo thủ, nhưng do Ðại Chúng đã phân thêm những bộ, nên Thượng Tọa bộ cũng bị ảnh hưởng phân tán thành những tiểu bộ.

Trước tiên, vào khoảng 200 năm sau khi Phật nhập diệt, Thượng Tọa bộ phân liệt thành Nhất Thiết Hữu bộ hay Hữu bộ, họ chủ trương như tên của bộ ''các pháp đều có'' , họ lại cho rằng ''nhân vô ngã'' nhưng ''pháp hữu ngã'' hay ''ngã không, pháp hữu'' nên cũng còn được gọi là Thuyết Nhân bộ. Về vạn hữu nguyên thủy Phật giáo lấy ''ngũ uẩn'' thành lập thế giới và chia thế giới ra làm ''tam giới'', và để đối chọi với Thắng Luận phái, Hữu bộ chia vạn hữu ra thành 5 vị, 75 pháp : Năm vị ấy là: Sắc pháp (có 11 pháp), Tâm pháp (chỉ có 6 thức), Tâm sở hữu pháp (có 46 pháp), Tâm bất tương ưng hành pháp (có 14 pháp), vô vi pháp (có 3), các pháp có đều là do ''Nghiệp cảm duyên khởi''

Sau đó có nhóm hậu duệ của ngài Ðộc Tử, đề cao Luận Tạng A Tỳ Ðạt Ma Pháp Uẩn Túc Luận của Ngài Xá Lợi Phất, nên Nhóm này gọi là Ðộc Tử bộ. Mặc dù đức Thế Tôn có dạy rõ ràng:

''Dầu chư Phật có xuất hiện hay không, Này các Tỳ khưu, có một sự kiện, một nguyên tắc nhứt định, một định luật thiên nhiên, là tất cả các vật cấu tạo đều vô thường (Anicca), khổ não (Dukkha) và tất cả đều không có linh hồn (Anattã). Như Lai đã chứng ngộthấu triệt điều ấy. Như Lai quảng bá, truyền dạy, tuyên bố, xác định, phân táchchỉ dẫn rành mạch rằng tất cả các vật cấu tạo (hữu lậu) đều vô thường, khổ não và vô ngã''.

(Tăng Nhất Bộ kinh)

Nhưng Ðộc Tử bộ chủ trương rằng sau khi con người chết, ngũ uẩn không còn nữa thì phải có cái gì đó, siêu việt ngũ uẩn gọi là Nhân thể (Pudgala), nó thường hằng để chịu nhân quả.

Chúng ta biết rằng, giáo lý tinh yếu nguyên thủy đức Phật đã giảng dạy, chính là bài thuyết pháp đầu tiên nơi vườn Nai : Ðó là Bốn Chân Lý, Mười hai nhân duyên và sau triển khai thêm Năm uẩn là đủ cả nhân sinhvũ trụ quan Phật giáo.

Trong Trung A Hàm đức Phật dạy:

''Như lai chỉ dạy có một điều là khổ nãochấm dứt mọi đau khổ''.

Trong Tự Thuyết của Tiểu bộ kinh :

“Này hỡi Tỳ Khưu, cũng như nước của đại dương hùng dũng chỉ có một vị là vị mặn của muối, giáo pháp chỉ có một vị là vị giải thoát''

Vậy thì Nhân thểÐộc Tử bộ chủ trương đó, đã rời xa giáo lý của đức Thế Tôn.

Trong Ðộc Tử bộkiến giải bất đồng ở một bài kệ trong A Tỳ Ðạt Ma Pháp Uẩn Túc Luận, tự bộ này phân ra thành 4 tiểu bộ: Pháp Thượng bộ, Hiền Trú bộ, Chánh Lượng bộ và Mật Lâm bộ.

Khoảng 300 năm sau đức Phật nhập diệt, Hữu bộ phân thêm Hóa Ðịa bộ, đây là tên của một người Bà La Môn, sau khi quy y đầu Phật, thường đem kinh Vệ Ðà để giảng giải lời Phật, các đệ tử của ông về sau thành lập bộ riêng, nên người ta dùng tên ông đặt tên cho bộ đó.

Từ Hóa Ðịa bộ, một nhóm tin theo sự phân chia kinh điển thành 5 tạng của ngài Pháp Tạng (tương truyền là đệ tử của Ngài Mục Kiền Liên), họ lập thành Pháp Tạng bộ.

Lại có một bộ nữa là Ẩm Quang bộ, do những người Hữu bộ theo chủ trương của ngài Ẩm Quang (đệ tử Phật), chia những lời Phật dạy thành 2 phần, một phần để đả phá ngoại đạo và một phần để đối trị phiền não.

Hữu bộ còn phát sinh ra Kinh Lượng bộ, bộ nầy chủ trương phục hồi lập trường của Thượng Tọa bộ, lấy Kinh Tạng làm gốc tu tập.

Hữu bộ phát sinh làm cho Thượng Tọa bộ suy kém, lui về ẩn ở Tuyết Sơn (Hy Mã Lạp Sơn) cho nên còn gọi là Tuyết Sơn bộ.

Tóm lại khoảng từ 100 đến 300 năm sau khi Phật nhập diệt, Phật giáo chia thành 2 bộ chánh là Thượng Tọa bộ và Ðại Chúng bộ, từ 2 bộ này chia ra thành những bộ khác nữa, tóm chung có ít nhất là 20 bộ. Thượng Tọa bộ khu trú vùng Bắc Ấn, chủ trương bảo thủ, tư tưởng có khuynh hướng ''hữu'', sau nầy truyền bá sang Tích Lan thuộc phía Nam Ấn Ðộ, nên được gọi là Phật Giáo Nam Truyền hay Nguyên Thủy, kinh điển dùng tiếng Pali. Ðại Chúng bộ khu trú vùng Trung Ấn, chủ trương tự do khoan hòa, tư tưởng có khuynh hướng ''VÔ'', sau này truyền bá sang Trung Hoa, Tây Tạng ở về phía Bắc Ấn, nên được gọi là Phật Giáo Bắc Truyền hay Phật Giáo Phát Triển, lại có chủ trương tu tập để tiến tới quả vị Phật, ví như cổ xe lớn chở được nhiều người, nên còn có tên là Phật Giáo Ðại Thừa, kinh điển dùng Phạn ngữ.

Vào khoảng thế kỷ thứ II, sau thời kỳ Phật Giáo phân bộ và sau khi Kiết Tập kinh điển lần thứ IV, tư tưởng Ðại Thừa đã được Ðại Chúng bộ un đúc, Bồ Tát Mã Minh đã chính thức đưa Ðại Chúng bộ vượt lên với tác phẩm Ðại Thừa Khởi Tín Luận.

Bồ Tát Mã Minh,theo truyền thuyết khi ngài sinh ra, ngựa quanh vùng đều hí lên nên ngài được đặt tên là Mã Minh (Asvaghosha), con một nhà Bà La Môn ở miền sông Hằng. Khi chưa vào đạo Phật, ngài rất tin và công nhận bản ngã. Nhơn việc ấy, tổ thứ 11 Phú Na Dạ Xoa - đệ tử của Hiếp Tôn Giả (Pàrsva), được vua Ca Nhị Sắc Ca (78-101) tham vấn tổ chức Kiết Tập Kinh Ðiển lần thứ IV - hỏi Mã Minh:

''Trong pháp Phật nên phân biệt hiển giáomật giáo. Theo hiển giáo người ta dạy đạo cho cư gia thiện nam, tín nữ, dường như có một cái bổn ngã. Còn theo mật giáo, người ta không công nhận sự sống thật, người ta dạy rằng tất cả đều giả dối, bào ảnh. Thì đâu có chỗ nào cho cái bổn ngã dựa nương?''.

Nhờ câu hỏi ấy, ngài Mã Minh thoả mãn với giáo lý nhà Phật, quy y tam bảo, thọ giới xuất gia. Ngài đặc biệt nổi tiếng trong giới thi ca tiếng Phạn, và chính ngài là người đã đưa nền văn học Phật Giáo tiếng Phạn lên đỉnh vinh quang, đặc biệt là bản trường ca ''Phật Sở Hành Tán'', với bút pháp hành văn tuyệt diệu, ngài đã ca tụng và đưa hình ảnh đức Phật lên thành bậc siêu nhân, sau 700 năm tịch diệt đã bị phai mờthời gian.

Vì sao tác phẩm lại gọi là Ðại Thừa Khởi Tín Luận, chúng ta biết rằng thời Phật tại tiền, ngài dạy cho các đệ tử sống đời Phạm hạnh, chuyên cần hành thiền để chứng đắc quả vị A La Hán. Ðại Thiên đưa ra ngũ sự phê phán quả vị La Hán, nay Mã Minh đưa ra tác phẩm nầy để thuyết minh Như Lai Tạng - chúng sanh - vì vô minh đang bao bọc Như Lai, phá vở cái vỏ u tối Như Lai Tạng ấy, ở ngay nơi con người chúng ta thì Như Lai hiện tiền, tức là thành Phật. Luận của ngài Mã Minh được người sau đánh giá cao, nên đã tôn vinh ngài lên hàng Bồ Tát vậy.

Chúng ta đã biết rằng, Hữu bộ với khuynh hướng ''Có'', Ðại chúng bộ ''Không'', cho nên 700 năm sau Phật nhập diệt, vào khoảng thế kỷ thứ II có Long Thọ chủ trương ở giữa với tác phẩm Trung Quán Luận, ông đã đưa triết học Phật Giáo trở về với tinh hoa nguyên thủy.

Trước thời Long Thọ, các kinh điển Ðại Thừa Phật Giáo đã có : Ðại Phẩm Bát Nhã Kinh, Tiểu Phẩm Bát Nhã Kinh, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, Ðại Vô Lượng Thọ Kinh, Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh, Duy Ma Kinh, đó là những bộ kinh chánh yếu, ngoài ra còn những bộ kinh khác.

Long Thọ (Nàgàrjuna) hay Long Thụ còn có tên là Long Thắng, ngài sanh ra ở nơi cây A Châu Ðà Na (Arjuna), nên mẹ ngài lấy tên cây, đặt tên ngài, về sau tương truyền ngài nhờ loài Rồng (Nàgà), xuống Long cung chép bộ kinh Hoa Nghiêm đem về thế gian, nên người ta mới tôn xưng, ghép lại viết là Nàgàrjuna, niên đại xuất thế của ngài có nhiều thuyết khác nhau, đại thể là khoảng đầu thế kỷ thứ III, ngài người nước Tỳ Ðạt Bà (Vidharbha) Nam Ấn, thuộc dòng dõi Bà La Môn, bẩm tính thông minh, lúc thiếu thời ngài đã tinh thông kinh điển Vệ Ðà, và một số học thuật khác. Nhưng các môn học thuật không làm cho ngài mãn nguyện, do đó ngài đã xuất gia đầu Phật quyết tìm chân lý, trước ngài tìm hiểu Phật giáoThượng Tọa bộ, sau qua nghiên cứu kinh điển Ðại chúng bộ, thuở ấy kinh điển Ðại thừa đã có, ngài nghiên cứu qua và thông hiểu hết, nên sắp xếp lại thành một thế hệ giáo học Ðại Thừa Phật Giáo.

Ngài hoạt động ở nhiều nơi, vua nước Kiều Tất La là Satàvahana mến mộ đức độ ngài, nên quy y Phật giáo, và hộ trì ngài bằng cách xây một Ðại Tịnh Xá ở phía Tây Nam núi Hắc Long Sơn (Bhràmaragiti), để có nơi xứng đáng cho ngài làm cơ sở hoằng dương chánh pháp, nơi đây trở thành trung tâm truyền giáo, ngài đã trước tác nhiều bộ luận giá trị để tuyên dương giáo lý Ðại Thừa, do công đức đó người ta tôn xưng ngài là Ðệ Nhị Thích Ca.

Như đã nói, sự nghiệp trước tác của ngài có nhiều bộ luận như : Trung Quán Luận (Madhya-dhyàna-sàstra), Thập Nhị Môn Luận (Dvàdasa-nikàya-sàstra), Ðại Trí Ðộ Luận - còn gọi là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða Kinh Thích Luận - (Mahàprajnàpàramità-sàstra), Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận (Dasabhùmi-vibhàsà-sàstra) . . . về kinh có Kinh Hoa Nghiêm.

Trung Quán Luận, Thập Nhị Môn Luận của ngài và Bách Luận (Sata-sàstra) của ngài Ðề Bà (Deva) là ba bộ luận căn bản của học phái ''Tam Luận Tông '', thêm Ðại Trí Ðộ Luận thành bốn bộ luận căn bản của học phái ''Tứ Luận Tông'' .

Vì ngài sáng tác nhiều tác phẩm, giáo nghĩa uyên thâm, nhiều tông phái sau này đã dùng chúng để xiển dương, cho nên người xưa cho ngài là tị tổ của Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông, Mật Tông, Hoa Nghiêm Tông, Tam Luận Tông . . . Nhưng bộ luận căn bảnTrung Quán Luận, thường gọi là Trung Luận, trình bày rõ tư tưởng ''Trung Ðạo'' hay triết lý tánh KHÔNG.

Ðể có thể hiểu một cách đại cương về Trung Luận, Hoà Thượng Thích Thanh Kiểm trong Lược Sử Phật Giáo Ấn Ðộ đã tóm tắc như sau:

''Trước hết lý luận về ''chư pháp thực tướng'', ngài Long Thụ gọi chư pháp thực tướng là ''chân không vô tướng''. Nhưng KHÔNG đây không phải là cái KHÔNG đối lập với CÓ, cũng không phải là ý nghĩa HƯ VÔ mà là cái vượt ra ngoài vòng CÓ và KHÔNG để đặt một danh từ thay thế cho ý nghĩa trên tức là ''Trung Ðạo''. ''Trung Luận'' quyển thứ nhất nói : ''Bất sinh diệc bất diệt, bất thường diệc bất đoạn, bất nhất diệc bất dị, bất lai diệt bất khứ''. Nghĩa là thực tướng của chư pháp thì bản lai không có sinh cũng không có diệt, không có thường cũng không có đoạn, không có một cũng không khác, không có lại cũng không có đi. Nhưng vì quan niệm cố định của thế gian thì có sinh, có diệt, có thường, có đoạn, có một, có khác, có đi, có lại, thuộc 8 quan niệm giả tướng, để phủ định những quan niệm đó, nên ngài Long Thụ nói ra 8 thứ không là ''Không sinh, không diệt, không thường, không đoạn, không một, không khác, không lại, không đi'', để biểu hiện cái thực thể của chư pháp, và cũng để thuyết minh nghĩa ''Trung đạo''. Vậy nghĩa “Trung đạo” không phải là ý nghĩa trung gian giữa cái CÓ và KHÔNG mà là cái ý nghĩa vượt ra ngoài vòng sai biệt tương đối, siêu việt khỏi lãnh vực CÓ, KHÔNG và cả ''không cả cái không'', thuộc ở trường hợp ''ngôn ngữ đoạn đạo''.

Ðệ tử của ngài Long Thọ Ðề Bà (Deva) cũng gọi là Thánh Thiên (Aradeva), sinh ở cuối thế kỷ thứ III, người Nam Ấn, thông minh, có tài hùng biện nên được ngài Long Thọ phái đi các nơi để phá tà hiển chánh Ðại Thừa Phật Giáo, tương truyền sau ngài bị ngoại đạo hảm hại, ngài Ðề Bà có những tác phẩm:

Bách Luận (Sata-sàstra), Bách Tự Luận (Satàksara-sàstra), Quảng Bách Luận (Sata-sàstra-vaipulya),các bộ luận nầy đều lấy Trung Luận làm cơ sở, mục đích cũng để ''phá tà hiển chánh''.

Ngài Bạt Ðà Lađệ tử của Ðề Bà, người Trung Ấn cũng thông minh, cũng có tài hùng biện, ngài có viết sách chú thích bộ Trung Luận, hoạt động xiển dương Ðại Thừa ở vùng Trung Ấn.

Riêng kinh sách Việt Nam, viết về Trung Luận có : Triết Học Tánh Không của Tuệ Sỹ, Trung Luận của Thích Viên Lý, Lịch sử Tư TưởngTriết Học Tánh Không của Thích Tâm Thiện. . .

Sau thời đại Long Thọ, trước thời Vô Trước, Thế Thân, khoảng thế kỷ thứ IV, Ðại Thừa Phật Giáo có những kinh như: Kinh Thắng Man, Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Kinh Giải Thâm Mật, Kinh Lăng Già.

Vô Trước hay A Tăng Già (Asanga), sinh vào khoảng cuối thế kỷ thứ IV, tại thành Bá Lộ Sa (Purusapura), nước Kiền Ðà La (Gandhàra), Bắc Ấn, thuộc dòng dõi Bà La Môn, thân phụ là Kiều Thi La (Kausika) thân mẫu là Tỷ Lân Trì (Virici). Vô Trướcanh cả, kế đó là Thế Thân (Vasubandha), và em út là Tỷ Lân Trì Tử (Virincivaisa), cả ba đều xuất gia đầu Phật, Vô TrướcThế Thân rất nổi tiếng về thuyết A Lại Duyên Khởi trong Duy Thức học.

Ngài Vô Trước không thỏa mãn với Bà La Môn giáo, ngài theo qua Phật Giáo Bắc Ấn thuộc Hữu Bộ, lại không làm cho ngài được mãn nguyện, nên ngài chuyển qua nghiên cứu kinh điển Ðại thừa, rồi thấm nhuần, xiển dương tư tưởng Ðại Thừa Phật Giáo.

Theo truyền thuyết, ngài có thần thông, xuất thần lên cung trời Ðâu Xuất (Tusit) học đạo với đức Di Lặc (Maitreya), sau ngài lại thỉnh đức Di Lạc giáng xuống giảng đường ở nước A Du Ðà (Ayodhya) thuộc Trung Ấn, trong khoảng thời gian 4 tháng. Ban đêm đức Di Lặc giảng, ngài học; ban ngày, ngài giảng lại cho đại chúng. Ðịa bàn truyền bá của ngài là nước A Du Ðà và Ma Kiệt Ðà (Magadhà), ngài cũng khuyên em là Thế Thân, chuyển từ Hữu bộ sang nghiên cứu Ðại Thừa, ngài thọ 75 tuổi.

Trước tác của đức Di Lặc gồm có:

- Du Già Sư Ðịa Luận (Yogàcàryabhùmi-sàstra),
- Ðại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận (Mahàyàna-lankàra-sàstra),
- Thập Ðịa Kinh Luận (Dasabhùmika-sùtra-sàstra),
- Trung biên Phân Biệt Luận (Madhyàntavibhàga-sàstra).

Trước tác của ngài Vô Trước: - Hiển dương thánh giáo luận (Prakaranàryavàca-sàstra), Nhiếp Ðại Thừa Luận (Mahàyànà-samparigraha-sàstra), Ðại Thừa A Tỳ Dạt Ma Tạp Luận (Mahàyànàbhi-dharma-sangìti-sàstra), Kim Cương Bát Nhã ba La Mật Ða Kinh Luận (Vajraprajnà-pàramità-sùtra-sàstra), Thuận Trung Luận Nghĩa Nhập Ðại Bát Nhã Ba La Mật Kinh Sơ Phẩm Pháp Môn (do Long Thọ viết, Vô Trước chú giải, Bát Nhã Lưu Chi dịch ra Hán Văn).

Những bộ luận nêu trên, có luận xiển dương kinh Hoa Nghiêm, Trung Quán Luận là những trước tác của Long Thọ. Riêng Du Già Sư Ðịa Luận là bộ luận căn bản cho cho thuyết A Lại Da Duyên Khởi, nền tảng của Pháp tướng Tông.

Thế Thân (Vasubandhu), là em sinh sau Vô Trước chừng 20 năm, ở cuối thế kỷ IV, dòng dõi Bà La Môn, xuất gia đầu Phật theo Hữu bộ, sau tới nước Ca Thấp Di La (Kasmìtra), học giáo nghĩa Ðại Tỳ Bà Sa Luận, học xong ngài trở về nước Kiền Ðà La trước tác bộ A Tỳ Ðạt Ma Câu Xá Luận, củng cố cho tư tưởng của Hữu bộ thời bấy giờ. Về sau nghe theo lời khuyên của anh là Vô Trước, bèn chuyển sang nghiên cứu kinh điển Ðại Thừa, ông trước tác nhiều bộ luận, xiển dương giáo nghĩa Ðại Thừa, cuối cùng nhập diệt tại nước A Du Ðà (Ayodhà), hưởng thọ 80 tuổi.

Mặc dù người ta cho rằng ngài là luận chủ của trên một ngàn bộ luận, nhưng chỉ dịch sang Hán Văn trên mười bộ mà thôi, như : - A Tỳ Ðạt Ma Câu Xá Luận ( Abhidharma-kosa-sàstra), Duy Thức Tam Thập Luận Tụng (Vidyàmàtrasiddhi-tridasa-sàstra-kàrik), Duy Thức Nhị Thập Luận (Vidyàmàtra-vìmsati-sàstra), Ðại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận (Mahàyàna-satadharmavìdyàdvàra-sàstra) …

A Tỳ Ðạt Ma Câu xá Luận thuộc tư tưởng Hữu bộ, còn 3 luận sau thuộc Pháp Tướng tông hay Duy Thức học, đó là Tâm Lý Học Phật Giáo.

Chúng ta biết rằng Hữu Bộ chia vạn hữu thành 5 vị, 75 pháp, Tâm pháp chỉ có 6 là : Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý nay có thêm Mạt Na, và A Lại Da Thức.

Từ Nghiệp cảm duyên khởi, nhưng Nghiệp ấy do đâu mà có, do các chủng tử ở A lại Da Thức, đó là A lại Da Duyên Khởi.

Trần Na (Dignàga hay Màhadignàga), sinh ở cuối thế kỷ thứ V, tại Kiến Trì Thành (Kàncipura) thuộc nước Ðạt La Tỳ Trà (Dràvida) Nam Ấn, lúc đầu học giáo lý Hữu bộ, sau chuyển sang học giáo lý Ðại Thừa, kế thừa tư tưởng A Lại Da duyên khởi của Vô TrướcThế Thân, ông cũng tinh thông môn Lý Luận của Chính Lý Phái (Nyàya) là Nhân Minh học (Hetuvidhyà), nhưng thấy còn phức tạp với 5 giai đoạn : Tôn, Nhân, Dụ, Hợp, Kết, nên ông đã giản lược chỉ còn có 3 là : Tôn, Nhân, Dụ. Nó đã trở thành môn Luận Lý học Phật Giáo.

Tác phẩm của ông:

- Nhân Minh Chính Lý Môn Luận Bản (Hetuvidya-nyayadvàra-sàstra-mùla),
- Quán Sở Duyên Duyên Luận (Alambanaprtyaya-hyàna-sàstra). . .

Sách trước là để chỉnh lý môn Nhân Minh Học, sách sau và những quyển luận khác để nói về A Lại Da Duyên Khởi.

Hộ Pháp, người ở cùng nước với Trần Na, theo học với Trần Na về Duy Thức, sau có đến Na Lan Ðà học, tại đây ông có truyền Duy Thức học cho Giới Hiền, ông rời Na Lan Ðà tới chùa Ðại Bồ Ðề ẩn tu, rồi tịch tại đây, thọ 32 tuổi.

Tác phẩm của ông có:

 - Thành Duy Thức Luận (Vìjnàpti-màtrata-siddhi-sàstra),
- Quán Sở Duyên Duyên Luận Thích . . . là những luận mà ông dùng chú thích các luận của Thế Thân, Trần Na và Ðề Bà.

Giới Hiền (Sìladhadra), người nước Samatata, Trung Ấn, khi đến học tại Na Lan Ðà, được Hộ Pháp truyền cho pháp môn Duy Thức, ngài trở thành đại luận sư của môn Duy Thức.

Thanh Biện (Bhavaviveka), vào khoảng thế kỷ VI, người Nam Ấn, lúc đầu theo học Số Luận, sau chuyển qua học Phật, kế thừa giáo nghĩa ''thực tướng luận'' của Long Thọ và Ðề Bà, địa bàn truyền đạo của ngài là nước Dhanakataka, thuộc Nam Ấn.

Ngài trước tác hai bộ luận:

- Ðại Thừa Chưởng Trân Luận (Mahàyànatànaratna-sàstra)
- Bát Nhã Ðăng Luận Thích (Prajnàdipà-sàstra-kàrika), quyển trên nói về Hữu vi không, vô vi không, quyển sau giải thích Trung Luận của Long Thọ.

Trí Quang (Jnànaprabha), đệ tử của Thanh Biện, tu học tại Na Lan Ðà, ngài thông hiểu giáo nghĩa của Hữu bộ và Ðại Thừa, đắc truyền ''thực tướng luận'' của Long Thọ, ngài là người đầu tiên phân định giáo nghĩa cao thấp của các học phái Phật Giáo, gọi là phán giáo, ngài phân ra 3 hạng: Thấp nhất là Hữu bộ: ''tâm cảnh câu hữu giáo'', hạng trung bình là Vô TrướcThế Thân: ''Tâm hữu, cảnh không giáo'', hạng cao nhất là Long Thọ: ''tâm cảnh câu không giá ''.

Ðể đối ứng lại với Trí Quang, Giới Hiền phân như sau: Thấp là Hữu bộ: ''Hữu giáo'', hạng giữa là Long Thọ: ''Không giáo'', cao nhất là Vô TrướcThế Thân: “Trung đạo giáo”.

Ðến thế kỷ thứ VII, ngài Huyền Trang sang Thiên Trúc (Ấn Ðộ) thỉnh kinh, có tới học tại Na Lan Ðà, cả Giới HiềnTrí Quang đều muốn truyền môn học của mình cho Huyền Trang, nhưng Huyền Trang chọn học Duy Thức với Giới Hiền.

Trong Phật Giáo, học viện Na Lan Ðà rất danh tiếng, vì nơi đó giao lưu những trào lưu tư tưởng các bộ phái Phật Giáo Bắc và Nam Tông thời bấy giờ, đã đào tạo nhiều bậc thạc học Phật giáo như Giới Hiền, Trí Quang, Huyền Trang...

Ðại học nầy xây dựng vào năm 480, ở phía Bắc Thành Vương Xá thuộc Trung Ấn, nhiều nhà vua xây dựng qua nhiều đợt, đến thế kỷ thứ VII, theo ký sự của ngài Huyền Trang có 8 viện và 300 phòng làm thành đại già lam, nguy nga tráng lệ, nơi đây có lúc tới 30 ngàn học tăng các nước tới học, các đại sư Trung Quốc như Pháp Hiền, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh .. khi sang Ấn Ðộ đều có tới đây tham học, nay chỉ còn lại trơ trọi những nền móng, phơi thân cùng năm tháng.

Ðến thế kỷ thứ VIII, đạo quân Hồi thuộc Thổ Nhĩ Kỳ đã đem quân xâm lăng Ấn Ðộ, từ đó cho đến năm 1203, quân Hồi chiếm toàn cõi Trung Ấn, sau đó chia quân tiến chiếm các nơi. Chùa chiền bị đốt phá, Tăng, Ni bị hảm hại. Phật Giáo đã bị Hồi Giáo diệt vong ngay tại quê hương của mình. Do đó, các trào lưu tư tưởng Phật Giáo không được phát triển thêm và cho đến năm 1891, ông Anagarika Dharmapala, người Tích Lan, cộng tác thân cận của ông Henry Stelle Ocott, sang thăm viếng Bồ Ðề Ðạo Tràng, thấy cảnh Phật Giáo Ấn Ðộ điêu tàn, ông phát nguyện phục hưng Phật Giáo Ấn Ðộ, từ đó đến nay hơn một thế kỷ, tại Ấn Ðộ Phật Giáo đã bắt đầu hồi sinh, nhưng cho đến cuối thế kỷ 20 có lẽ chỉ được 1% tỷ lệ dân Ấn theo đạo Phật mà thôi.

Sau đó, Ấn Giáo trả lại cho Phật Giáo Bồ Ðề Ðạo Tràng, ngày nay nhiều nước xây dựng chùa ở Bồ Ðề Ðạo Tràng, hay ở vùng Lâm Tỳ Ni ở Nepal, và đang có đề án xây dựng một Ðại Học Phật Giáo trên đất Ấn, ngay tại quê hương truyền giáo của Phật, để làm cho Phật Giáo nơi đây hưng thịnh lại, trở thành trung tâm truyền bá, hòa nhịp với làn sóng Phật Giáo đang làn tràn khắp nơi trên thế giới.

Trước ngưỡng cửa Thiên Niên Kỷ mới, nguyện cầu cho Vạn Vật Thái Bình.

 Giáng Sinh 1999

Sách tham khảo :

Phan Văn Hùm Triết Học Phật Giáo, Tân Việt, Sàigòn, Việt Nam, 1958
Thích Thanh Kiểm Lược sử Phật Giáo Ấn Ðộ, Vạn Hạnh, Sàigòn, Việt nam, 1963
Cao Hữu Ðính Luận Ðại Thừa Khởi Tín, NXB Thuận Hoá, Huế, Việt Nam, 1996
Nguyễn Ðăng Thục Lịch Sử Triết Học Ðông Phương, Tập 3, Việt Nam, 1997
NÃRADA MAHA THERA Ðức Phật Và Phật Pháp, Việt Nam, 1989
Thích Tâm Thiện Lịch Sử Tư TưởngTriết Học Tánh Không, Việt Nam, 1999
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1182)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1649)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1582)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1497)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1086)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1475)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1415)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1335)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1388)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1713)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1978)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1438)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1095)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1429)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2031)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1475)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1563)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1392)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2911)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1378)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1411)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1733)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1682)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1636)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1479)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2645)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1606)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1615)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1407)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1428)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1568)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1446)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1434)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1522)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2205)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1552)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1513)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1632)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1846)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1536)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1418)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1675)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1425)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1714)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2393)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1474)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1964)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1683)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1763)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1622)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1956)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1685)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1442)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1731)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1583)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1550)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1338)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1255)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1299)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant