Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

01. Phương Pháp Tu Học Hàng Ngày

09 Tháng Mười 201100:00(Xem: 11910)
01. Phương Pháp Tu Học Hàng Ngày

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 3: THỰC HÀNH

Phương Pháp Tu Học Hàng Ngày

I.- Dẫn: Chúng ta trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi là do Vô minh nên bị Tam độc: Tham, Sân, Si gây ra. Là một Phật Tử, chúng ta phải có chương trình tu học hàng ngày, cũng gọi là công phu tu tập, để xóa bỏ Vô minh, công phu ấy không ngoài Giới, Ðịnh và Huệ.

II.- Nội dung: Giới Ðịnh Huệ cũng còn được gọi là Tam Học, chúng có liên quan mật thiết với nhau, vì người có giữ Giới mới sanh Ðịnh, có Ðịnh mới sanh Huệ.

1) Giới: Người Cư sĩ tại gia chúng ta, Phật chế ra năm giới để tu học. Muốn thoát khỏi luân hồi sanh tử, người Phật tử chúng ta phải diệt trừ : Lòng dâm dục, sát hại chúng sanh, trộm cướp, nói dối và uống rượu. Giới phải giữ trong tâm và ngoài thân cho được nghiêm mật. Giới rất quan trọng, Phật dạy phải tôn trọng Giới như là Thầy của tất cả những người con Phật.

Vì lòng thương chúng sanh, Phật dạy chúng ta ăn chay để khỏi giết hại những sanh vật. Trước nhất chúng ta tập ăn chay kỳ, mỗi tháng ăn 2 ngày là mồng Một và Rằm. Ăn chay 4 ngày là ngày 30 (tháng thiếu 29) và mồng Một, ngày 14 và Rằm. Ăn chay 6 ngày là 1, 8, 14, 15, 23, 30 (hay 29), ăn chay 10 ngày là 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 (tháng thiếu 27, 28, 29).

Nếu được, một năm nên ăn chay 1 tháng hay 3 tháng. Nếu ăn chay một tháng thì chọn tháng Giêng hay tháng Bảy, còn ăn chay 3 tháng thì các tháng Thượng Nguơn (Tháng Giêng), Trung Nguơn (Tháng Bảy), Hạ Nguơn (tháng Mười).

Tiến lên nữa là ăn chay trường, sẽ giúp cho thân thể ít bệnh hoạn, trí tuệ được minh mẫn, tránh cho ta khỏi nghiệp sát sanh.

ăn chay là ăn ngủ cốc, rau cải, trái cây cho nên rất dễ tiêu hóa, làm cho bụng mau đói, ăn chay kỳ nên chăm sóc bữa ăn, nên có món ăn ngon miệng, để cho việc ăn chay được dễ dàng, không chán ngán. Người ăn chay trường nên chăm sóc bửa ăn, đừng để thiếu chất bổ dưỡng sanh ra bệnh tật, từ đó người khác có kết luận sai lầm : Ăn chay hay bị bệnh tật.

Phải ráng giữ đúng kỷ luật, đúng ngày chay thì ăn, dù ngày đó có tiệc tùng chúng ta cũng vẫn giữ ăn chay, có như thế việc ăn chay của ta mới có ý nghĩa và được nhiều lợi lạc.

2) Ðịnh: Có mục đích làm cho tâm của mình được định, người ta hiểu định có nghĩa là Thiền định hay ngồi thiền để cho tâm được thanh tịnh. Người ta ví tâm như con vượn, ý như con ngựa (tâm viên, ý mã) bởi vì sự hoạt động của tâm vừa lăn xăn, lộn xộn vừa nhanh chóng. Nếu ta ngồi yên sẽ thấy tâm ta nghĩ chuyện nọ lại nhảy sang chuyện kia, tưởng nhớ đến chuyện xa chuyện gần, nó vượt trùng dương còn nhanh hơn ngựa chạy, bằng với làn sóng điện. Những pháp môn như ngồi Thiền, niệm Phật, trì chú, tụng kinh cũng đều làm cho tâm ta thanh tịnh hay là định tâm.

A.- Thiền định: Là phương pháp định tâm hữu hiệu nhất, người ta lựa chỗ yên tịnh, không nóng quá, không lạnh quá, ngồi kiết già hay bán già, toàn thân buông thả, để tâm chuyên chú vào một sự vật thật đơn giản, chẳng hạn như một vòng tròn màu vàng, theo dõi hơi thở vào, hơi thở ra. Muốn được tường tận hơn xin đọc sách, như Thiền Căn Bản của Hòa Thượng Thích Thanh Từ, Kinh Quán Niệm Hơi Thở của Thiền Sư Nhất Hạnh dịch, đã đăng trong Phật Học số 20, bài Thiền đăng trong Phật Học số 15 và 16, hoặc những sách dạy Thiền của Phật Giáo.

Phương pháp Thiền áp dụng hữu ích cho những người còn trẻ cho đến khoảng 50 tuổi, bởi vì độ tuổi nầy thân thể còn khoẻ mạnh, trí óc minh mẫn dễ định tâm, ngồi Thiền phải tu tập hàng ngày, mỗi thời phải từ 30 phút trở lên đến 1, 2 giờ, người lớn tuổi sẽ bị chân đau, lưng mõi, do đó khó mà tu tập.

B.- Niệm Phật: Pháp môn nầy tuổi nào tu cũng được, và Niệm Phật bất cứ lúc nào; khi đi, đứng, nằm, ngồi. Ấn Quang đại sư ngài dạy cho đến đi vệ sinh cũng niệm Phật, niệm niệm không dứt, mục đích là làm thế nào cho tâm ta cột chặt vào danh hiệu Phật, chẳng hạn như tâm ta khư khư chẳng chuyển với sáu chữ Nam Mô A Di Ðà Phật. Nên đọc những sách như Lá Thư Tịnh Ðộ của Ấn Quang Ðại Sư do Liên Du dịch, Niệm Phật Thập Yếu của Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, Tây Phương Du Ký của Pháp sư Khoan Tịnh do Hữu Từ và Tâm Hảo dịch, bài Niệm Phật đăng trong Phật Học số 17.

Người ta niệm Phật to tiếng, nhỏ tiếng hay niệm thầm, có hay không lần tràng chuỗi đều được cả, pháp môn nầy rất thích hợp cho người già. Nên nhớ câu : Nhứt cú Di Ðà vô biệt niệm, bất lao đàn khảy đáo Tây Phương. (Một câu niệm Phật chẳng dứt, đừng lo chỉ khảy móng tay là đến Tây Phương).

C.- Trì chú: Trì chú có nghĩa là chúng ta đọc chú, người ta cho chú là linh ngữ hay mật ngữ, tức là nó có hiển linh, đọc để trừ tà ma quỷ quái hay nó là lời kín nhiệm không thể hiểu hay không cần hiểu, đọc nó trúc trắc, gần như lập đi lập lại, cho nên người ta dễ đọc câu nọ ra câu kia, câu sau đọc trước, câu trước đọc sau. Do đó tâm phải chuyên chú vào mới không bị nhầm lẫn, đó cũng là phương pháp định tâm. Chú Ðại Bi còn ngắn, còn dễ, qua Chú Lăng Nghiêm mới thấy là trúc trắc khó nhớ, dễ lộn nếu không định tâm.

Theo Mật Tông, miệng niệm chú, tay còn phải bắt ấn, vị nào muốn nghiên cứu xin xem bộ Hiển Mật Viên Thông của ngài Viên Ðức, nhưng nếu không có thầy chỉ dạy có lẽ không nên tập luyện thì tốt hơn.

D.- Tụng kinh: Cũng là cách để cho chúng ta định tâm, bởi vì nếu chúng ta không định tâm, tụng xong thời kinh, ta sẽ không hiểu gì cả. Chúng ta nên tụng kinh gì? Kinh gì tụng cũng được nhưng có một số kinh được tụng trong những trường hợp đặc biệt, thí dụ khi Cầu siêu để hóa độ cho người chết, người ta tụng kinh A Di Ðà; để Cầu an cho người bệnh hoạn, nạn tai người ta tụng Phẩm Phổ Môn; gặp khi đau yếu, người ta tụng kinh Dược Sư; một người đau lâu trở bệnh nặng, người ta tụng kinh Ðịa tạng..., ngày nay nhiều người hay tụng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa hay gọi tắc là Kinh Pháp Hoa.

3) Huệ: Huệ là sự phát chiếu của Trí huệ sau khi được tẩy sạch phiền nãovô minh, Huệ có được do tâm tịnh thì trí huệ sanh hoặc do tu theo phương pháp mở mang trí tuệ : Văn, Tư, Tu.

Văn huệ là do tai nghe âm thanh, mắt thấy kinh điển Phật mà hiểu được nghĩa lý, cho nên chúng ta cần phải thường xuyên đọc kinh điển, những người sơ cơ hay những người muốn có căn bản về Phật Pháp nên đọc quyển Phật Pháp (do quý Ðại Ðức nay đều là Hòa Thượng Minh Châu, Thiên Ân, Chơn Tri, Ðức Tâm soạn theo chương trình dạy Ðoàn sinh Gia Ðình Phật Tử, nhưng ai đọc cũng hữu ích), hoặc bộ Phật Học Phổ Thông của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, bộ nầy tuy soạn cho đại chúng nhưng viết ở trình độ cao hơn, phải đọc từng bài theo thứ tự từ thấp tới cao, đọc xong 2 bộ sách nầy, người đọc sẽ có trình độ hiểu biết Phật Pháp khá vững, sau đó đọc sang kinh Pháp Hoa, Niết Bàn ... Muốn hiểu rõ Phật và các đại Ðệ Tử của Ngài, nên đọc Phật và Thánh Chúng của Cao Hữu Ðính, hay quyển Ðức Phật và Phật Pháp của Ðại Ðức Narada, về sử Phật Giáo Việt Nam, nên đọc Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang (Cũng là bút hiệu của Thiền Sư Nhất Hạnh), nên có Bộ Phật Học Ðại Từ Ðiển của ông Ðoàn Trung Còn, bộ nầy tuy không đầy đủ nhưng tạm giúp cho chúng ta tìm kiếm những danh từ Phật Học thông thường nhanh chóng. Những sách nầy Phật Học Viện Quốc Tế , 9250 Columbus Ave. North Hills, CA. 91343 - Tel. (818) 893-5317 có phát hành, có thể gửi thư xin danh mục để biết giá cả và những sách khác. NXB Lá Bối P.O. Box 781 San Jose CA. 95106-0781. Phone : (510) 686-2908

Tư huệ là do suy tư nghĩa lý kinh điển mà thấu đáo chân lý,

Tu huệ là do tu hành thể nghiệm và thể nhậpchứng ngộ được chân lý.

III.- Kết luận: Phật dạy có 8 vạn 4 ngàn pháp môn tu tập, mỗi người chúng ta tùy theo căn cơ phù hợp với pháp môn nào nên theo pháp môn ấy, điều cần nhất là phải tinh tấn chuyên cần, giờ giấc công phu không nên trễ nãi. "Tu nhất kiếp, ngộ nhất thời", chỉ cho những người có căn cơ, họ là những bậc xuất gia hay những vị vào trong thâm sâu cùng cốc tu hành, là điều khó đạt được ở một người Cư sĩ, nhưng mà hạ thủ công phu tu trong 5 năm, 10 năm chúng ta sẽ thấy những gì mà chúng ta đã đạt được. Tu là để chuyển nghiệp, để giải thoát khỏi luân hồi bị chìm trong trầm luân khổ hải. Xin nhớ lời Phật dạy "Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi".

30-11-1996 & 27-11-1997

Sách Tham khảo:

MINH CHÂU, THIÊN ÂN, CHƠN TRÍ, ÐỨC TÂM Phật Pháp, THPGVN. Sàigòn. 1951

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1614)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1739)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1304)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 995)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1304)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1781)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1355)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1458)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1284)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2577)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1277)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1303)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1583)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1564)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1529)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1363)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2500)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1511)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1499)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1282)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1331)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1494)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1450)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1333)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1300)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1414)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2066)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1442)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1409)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1502)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1747)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1426)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1290)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1565)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1307)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1596)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2208)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1373)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1847)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1576)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1664)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1515)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1856)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1565)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1352)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1626)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1484)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1446)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1240)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1165)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1207)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1433)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1541)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1516)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 956)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1403)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1415)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1553)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1798)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1404)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant