Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06. Đạo Phật với tâm trong sángthanh thoát

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 15684)
06. Đạo Phật với tâm trong sáng và thanh thoát

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG I
ĐẠO PHẬT VỚI TÂM TRONG SÁNG VÀ THANH THOÁT

Mỗi độ Xuân về thì tôi lại tưởng nhớ đến những điều tôi đã đọc kinh sách nhà Phật và đi nghe các bậc cao tăng thuyết giảng hay có đôi khi được trực diện đàm đạo với quý thầy, mà tôi cảm nhận thấy đáng kính, biết nhiều, hiểu rộng về chân lý cao siêu của Đức Thế Tôn hầu bồi đắp cho sự hiểu biết nông cạn của mình, đó là sự học hỏi dễ nhớ, dễ hiểu và từ đó tâm linh trở lên trong sángthanh thoát.

Nguyên nhân cái khổ của con người là “tham, sân, si” một phần lớn cũng do ngoại cảnh tạo nên cho con người có một cái “TÂM” luôn luôn muốn vươn lên trên mọi người khác bằng vật chấtdanh vọng, chỉ vì vật chấtháo danh mà không loại trừ được lòng tham lam, si mêsân hận, (xin đọc bài quan niệm thiên đàng hay địa ngục). Thật ra con người khi mới sinh ra là trong sáng, không có một vết nhơ nào trong tâm hồn. Đức Khổng Tử đã nói: “Nhân chi sơ là tính bản thiện” hay “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Đúng vậy, nếu ta ở gần những người tốt, ta sẽ trở thành người tốt, nếu ta ở gần người xấu, ta sẽ trở thành người xấu. Do đó, tôi muốn đề cập đến nội tâmngoại cảnh.

Mọi cảnh vật bên ngoài đều thuộc về con người, nếu người đó sinh ra và trưởng thành trong một gia đình gia giáo, và có kiến thức, khi lớn lên họ sẽ chuyển đổi ngoại cảnh phải lệ thuộc vào chính họ, cho nên lúc đó con người là chủ, mà cảnh vật là bạn. Người đời thường nói “Thời thế tạo anh hùng” tức là hoàn cảnh đưa đẩy con người trở thành anh hùng, cũng có người nói “Anh hùng tạo thời thế” tức là người hùng người tài đức tạo nên sự nghiệp vẻ vang trong đời, hai câu này câu nào đúng? Ngoài ra cũng có người nói: Có những người trước kia họ là những kẻ tầm thường, không có tài đức, nhờ được cơ hội tốt họ trở nên con người xuất chúng, như vậy là “Thời thế tạo anh hùng”.

Ngoài ra, còn có những người dẫn chứng là “Vua Quang Trung tuy là người áo vải ở thôn quê, nhưng lại là người tài trí phi thường, nên từ một con người áo vải quê mùa, trở thành một vị tướng giỏi, một ông vua tài trí như vậy không phải là “Anh hùng tạo thời thế” hay sao?. Theo tôi thì tất cả mọi người thành công trên đều là: “Anh hùng tạo thời thế”. Tại sao vậy? Vì nếu thời thế đổi thay mà chúng ta là kẻ bất tài, vô trí lại có dã tâm độc ác, chỉ biết hại người, lợi mình không có “ĐỨC” thì không cải cách gì được hoàn cảnh, nên họ cũng chỉ là kẻ tầm thường như bao nhiêu người khác. Ngược lại, dù cho thời thế có biến đổi hàng trăm ngàn lần đi nữa, đối với người có tài trí, lấy đạo đức làm kim chỉ nam, thì dù trước cảnh thuận hay nghịch họ vẫn là người dũng mãnh, đứng lên cải cách xã hội, làm lên việc lớn, vì họ là người có sẵn cái ĐỨC HẠNH và TÀI TRÍ, được tạo dựng bởi nguồn gốc của bản thể.

Nếu ta biết nêu cao ĐỨC HẠNH làm đầu, ta phải học hỏi, nghiên cứu, tìm hiểu về triết giáo nhà Phật, do các vị cao tăng thuyết giảng, đều tùy phương tiện để độ thế giúp đời theo chân lý của đức Phật Tổ, mà thuyết pháp, giảng lý hoặc thuật tích hoặc chỉ luật, có khi nói xa, có lúc nói gần, có lần nói ám, dùng đủ cách để đem ánh ĐẠO VÀNG giáo hóa nhân loại sáng tỏ đại ý quý hóa của đường lối tu học, hầu tạo cho con người có một bản ngã viên thành, hợp quần trong nhân loại và một lý trí thông minh, phát huy được tính từ thiện, tình thương và khoa học để phục vụ cho chúng sinh.

Quý độc giả hãy cùng tôi đọc lớn một đoạn kinh Pháp Cú. (Đhammapada), trong đó Đức Phật đã đọc lên cho những người trong bộ tộc Thích Ca và Câu Ly cùng nghe sau khi ngài ngăn chặn được một cuộc chiến tranh tàn sát lẫn nhau giữa hai tộc nói trên như sau:

1.- Hạnh phúc cho chúng ta sống không thù hận, giữa những người thù hận, chúng ra sống không hận thù.

2.- Hạnh phúc thay cho chúng ta sống khoẻ mạnh, giữa những người ốm đau, chúng ta sống khoẻ mạnh.

3.- Hạnh phúc thay cho chúng ta sống không tham dục, giữa những người tham dục, chúng ta sống không tham dục.

4.- Hạnh phúc thay cho chúng ta sống không bị ràng buộc, chúng ta được sống an lạc, như các vị ở cõi trời quang âm.

5.- Thắng lợi thì bị thù oán, thất bại thì đau khổ, đừng nghĩ tới thắng lợi, chúng ta sẽ được sống trong an lànhhạnh phúc.

Nếu chúng ta có thể đọc tụng đoạn kinh trên với TÂM chân thành, chúng ta sẽ sống thích hợp với những lời dậy của Đức Thế Tôn và cùng nhau phục vụ cho mục tiêuchúng ta hằng tha thiết, ao ước.

Ngoài ra chúng tôi cũng xin quý vị cùng tôi tìm hiểu về thuyết “Tam Bảo” của Đức Phật Thích Ca đó là:

1.- Chư hành vô thường
2.- Chư Pháp vô ngã
3.- Cứu cánh niết bàn.

Điểm một: “Chư hành vô thường” có nghĩa là mọi sự nhất thiết trên thế gian này đều biến đổi không ngừng, đó là căn bản đại cương của Phật Pháp.

Điểm hai: “Chư Pháp vô ngã” có nghĩa là tất cả mọi Pháp hữu vi, hay vô vi đều không có thực thể tức là không có cái “ngã” cái ta ở trong ấy. Hữu vi pháp tuy có tác dụng mà không có thường trụ, vô vi pháp tuy có thường trụ mà lại không có tác dụng.

Điểm ba: “Cứu cánh niết bàn” là mục đích cuối cùng của Phật Giáo. Gọi chung ba điểm trên là “Tam pháp giáo ấn”.

Mặt khác chúng ta cùng nhau đọc, học 10 điều tâm niệm của Đức Thế Tôn sau đây, để lấy đó làm kim chỉ nam cho cuộc đời tu học của mình.

1.- Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh.

2.- Ở đời thì đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.

3.- Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.

4.- Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.

5.- Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường, kiêu ngạo.

6.- Giao tiếp đừng cầu lợi cho mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.

7.- Với người thì đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì thuận theo ý mình thì lòng kiêu căng.

8.- Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có ý mưu đồ.

9.- Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động.

10.- Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạchnhân ngã chưa xả.

Bởi vậy Đức Phật dậy:

- Lấy bệnh khổ làm thuốc thần.
- Lấy hoạn nạn làm giải thoát.
- Lấy khúc mắc làm thú vị.
- Lấy ma quân làm bạn đạo.
- Lấy khó khăn làm thích thú.
- Lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ.
- Lấy người chống đối làm nơi giao du.
- Coi thi ân như đôi dép bỏ.
- Lấy sự xả lợi làm vinh hoa.
- Lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh.

Nếu chấp thuận trở ngại thì lại thông suốt, mà mong cầu thông suốt thì lại bị trở ngại. Đức Thế Tôn thực hiện “Huệ Giác Bồ Đề” để ngay trong sự trở ngại như Uông Quật hành hung, Đề Bà quấy phá, mà ngài giáo hóa cho thành đạo quả. Như vậy há không phải sự chống đối lại làm sự thuận lợi và sự phá hoại lại làm sự tác thành cho ta?.

Ngày nay những người học đạo trước hết không dấn mình vào trong mọi sự trở ngại, nên khi trở ngại đến thì không biết ứng phó, chánh pháp chí thượng vì vậy mất hết, đáng tiếc đáng hận biết chừng nào!.

“Luận bảo vương tam muội”

Trên đây tôi chỉ dẫn giải một vài đoạn tâm đắc mà tôi đã học, đọc, nghe và hỏi được để dẫn chứng cụ thể làm kim chỉ nam cho những ai muốn loại trừ cái khổ, cái buồn, cái tham, cái hận mà vẫn còn chôn sâu tận đáy lòng ra khỏi cái “TÂM” để lòng được thanh thoát, muốn được như vậy không phải nhất thời mà phải kiên gan, nhẫn nại bền chí, quyết tâm dần dần mới thực hiện được.

Ngoại cảnh cũng làm cho con người dần dần tỉnh ngộ và thấm dần đạo hạnh ở nơi kinh sách, nghe thuyết giảng của các vị chân tu, cao tăng. Thật khó đối với những ai không có “hạnh nhẫn nhục”, để kiên định lập trường đi theo con đường tu thân. "TÂM" có thanh thoát trong sáng thì thân mới khoẻ mạnh, cường tráng, trí mới minh mẫn, từ đó mới hăng say với công việc thiện. Có nhiều người quan niệm Nhẫn là phải chịu nhục, nhưng kỳ thực thì nhẫn có phải là nhục không?, Nhẫn nhục là chữ Hán, dịch theo tiếng Việt là nhịn chịu, chứ không phải nhẫn là nhục.

Sau đây tôi nhắc đến câu chuyện cổ tíchliên quan đến Bồ Tát Quan Thế Âm để sáng tỏ thêm ý nghĩa nhẫn nhục. Câu chuyện rất được nhiều người biết đến là “Quan Âm Thị Kính”. Thị Kính là người đàn bà có chồng. Một hôm chồng đang ngủ, nàng thấy có sợi râu mọc ngược lên, nàng lấy kéo cắt bỏ. Chẳng may bị chồng và gia đình chồng hiểu lầm, cho nàng có ý ám sát chồng, nên nàng bị trả về cha mẹ đẻ, lễ giáo ngày xưa rất nghiêm khắc, người con gái ở trong gia đình đàng hoàng khi có chồng, mà bị đuổi về là một sự nhục nhã lớn cho gia đình. Thị Kính đang kham chịu cái nhục này, nếu là hạng nữ nhi thường tình không chịu nổi thì hủy mình tự tử. Thị Kính không làm việc đó, giả trai vô chùa tu, đó là bước nhẫn nhục thứ nhất.

Vốn dĩ người có nhiều vẻ đẹp nên khi xuất gia ở chùa, Thị Kính bị các cô để ý. Thị Mầu là một trong những cô ấy, nàng lại là một cô gái không đoan chính, thiếu đạo đức. Nàng thương Thị Kính, không được Thị Kính đáp lại nên sanh lòng oán hận, bèn lang chạ với kẻ thất phu có thai, rồi cáo gian cho Thị Kính là tác giả của bào thai đó. Thị Kính bị trị tội đánh đập. Khi bị hành hình nhục nhã, tại sao Thị Kính không minh oan rằng: Tôi là người nữ giả trai đi tu, mà cứ làm thinh mà chịu? Bấy giờ không có chùa Ni mà chỉ có chùa Tăng, nên Thị Kính phải giả trai để được ở chùa tu. Nếu khai mình là người nữ thì được tha tội, nhưng về chùa thì không được chấp nhận cho ở tu chung với Tăng. Đó là trường hợp thứ hai Thị Kính nhẫn nhục để được tu, dù với giá nào cũng phải chịu. Trước Thị Kính cam chịu nhục nhã ở đời để đi tu. Bây giờ cam chịu mọi hình phạt đau đớn nhục nhã, chờ thả ra để được về chùa tu, vì sự tu mà nhẫn như vậy. Thử hỏi, hai cái nhẫn này dễ làm hay khó?. Nếu là chúng ta chắc không ai chịu nổi.

Nhưng tới lần thứ ba thì tuyệt đỉnh. Sau khi bị đánh đập, tai tiếng không tốt. Thị Kính đã bị nhà chùa nghi, không cho ở trong chùa mà cho ở ngoài hiên. Bây giờ Thị Mầu sanh con ra bỏ trước hiên chùa. Nếu không quan hệ tình ruột thịt, thì đứa bé khóc mặc nó, hà tất gì mình phải quan tâm đến! Nhưng khi thấy đứa bé vô tội bị bỏ hoang Thị Kính liền ôm vào nuôi dưỡng. Bây giờ muốn trắng án, chỉ cần không nhận không nhìn đứa bé là được giải oan rồi. Nhưng khi thấy đứa bé bị bỏ hoang, nóng ruột ôm nuôi, như vậy ai tin Thị Kính trong sạch? Chính Hoà Thượng cũng sinh ra nghi ngờ. Tại sao Thị Kính làm như thế? Vì lòng từ bi! Thà cứu một mạng sống mà mình bị khổ, hơn là ngồi yên để mặc cho người đau khổ.

Nuôi đứa bé không dễ dàng. Đã bị dư luận không tốt, lại còn không phương tiện nuôi dưỡng, không tiền, không sữa, không thức ăn... phải vào xóm làng để xin, đi tới đâu cũng bị khinh thường, phỉ báng. Thế mà Thị Kính mặc nhiên, ai chửi thì chửi, ai khinh thì khinh, việc nên làm vẫn cứ làm. Công đức ấy to biết chừng nào, lòng từ bi bao lớn, đức nhẫn nhục có thiếu không? Do đức nhẫn nhục cao tuyệt vời ấy, nên lòng từ bi mới viên mãn. Nhẫn nhụcTừ Bi viên mãn thì quả Phật hiện kề. Bây giờ Thị Kính được tôn xưng là “Bồ Tát Quan Thế Âm”.

Vậy tất cả những người phát tâm tu, đều phải học hạnh nhẫn nhục, người ta nói một câu nặng một, đáp lại một câu nặng gấp hai thì chưa phải là người có tâm tu. Nhẫn không có nghĩa là gồng mình chịu, mà dùng trí tuệ thấy đúng lẽ thật, buông xả mọi hơn thua với người khác, không cố chấp phiền hận, người chửi mình, mình không nhận đó là xả bỏ. Nếu mà bị chửi một câu mà nhớ hoài không quên, rồi sanh sân si, phiền não, thù hằn, tự mình chuốc khổ và làm người khác khổ lây, đó là không nhẫn, không tu. Vậy tôi mong mỏicầu xin cho tất cả mọi ngườixuất gia hay tại gia, cư sĩ hay Phật tử, nếu những ai đã biết đi chùa lễ Phật hoặc có một niềm tin nơi Đức Thế Tôn thì hãy tâm niệm và noi gương nhẫn nhục mà tôi đã dẫn chứng ở trên.

Mong lắm thay! 

Đọc Thêm:
Oan Ức Không Cần Biện Bạch, Tịnh Thuỷ

Quan Điểm Của Phật Giáo Về Phụ Nữ, Như Hạnh


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2705)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 2025)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3032)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2646)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3551)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3378)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4218)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3734)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4275)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2358)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3527)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4211)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3992)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2920)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3406)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3525)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4587)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3924)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4813)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4082)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3063)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3803)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3951)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3122)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3645)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4494)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3763)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2301)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2666)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3071)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2760)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4626)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4974)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2868)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5375)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2894)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3332)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4420)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4980)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4744)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3286)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4593)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4315)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6179)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3540)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4076)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6057)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5453)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4104)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33326)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3209)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4200)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4766)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3133)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3851)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3589)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6606)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2814)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3269)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4629)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant