Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (II)

30 Tháng Tám 202212:25(Xem: 1221)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (II)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (II)

walk-455903_1280-780x470

Chương trước chúng tôi đã tóm tắt duyên khởi bốn tội ba-la-di cộng thông của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni, bốn tội còn lại của tỳ-kheo-ni chỉ là phụ, chúng tôi không bàn ở đây. Chương này tiếp tục luận bàn đến vấn đề sám hối tội ba-la-di ra sao. Chúng tôi nhắc lại, lý do đề tài này được thảo luận cũng bởi có độc giả chưa thể giải nghi từ bài viết đăng trên mạng điện toán. Bài viết này tác giả đã tỉ mẩn trích lục nhiều tài liệu với mục đích chứng minh phạm tội ba-la-di có thể sám hối và đề cao tinh thần cứu độ vị tha của nhà Phật.

Nhưng viết về đề tài nghiên cứu Phật học, không riêng gì tác giả bài viết nói trên mà còn nhiều học giả trong nước cũng ít ngờ tới là nguồn sử liệu kinh, luật, luận hiện còn như những bộ “hồ sơ vụ án” cồng kềnh đồ sộ, trong đó dấu vết “nhân chứng”, “vật chứng”, “lời khai”… đã bị sửa đổi bởi bàn tay của Phật giáo bộ phái; sau đó trải qua truyền thống lâu đời, văn bản lại bị biến dạng nghiêm trọng theo hệ tư tưởng Tiểu thừa đến Đại thừa, từ đó đúng sai khó phân định. Cho nên những nhà Phật học hàn lâm thế giới, khi nổ lực tìm hiểu đâu là giáo nghĩa từ Kim khẩu của Phật nói ra, bắt buộc họ phải đối chiếu tất cả các văn bản, xem chỗ nào giống nhau thì đó là giáo lý nguyên thủy. Chúng tôi sẽ theo phương pháp đó, vừa minh thị lại vấn đề, vừa chung đúc lại cuộc sống trong xã hội nhà chùa xưa và nay. Trước khi đi vào chi tiết, chúng tôi nói về ý nghĩa của từ “sám hối”.

I. Ý NGHĨA SÁM HỐI

1. Giải thích từ nguyên:

Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.

Vào thời kỳ đầu, những bản kinh Phạn cổ hay gọi Hồ bản được phiên dịch tại Trung Quốc, liên quan đến nghĩa sám hối chúng ta thấy chỉ dịch “hối quá 悔過” như Phật thuyết Xá-lợi-phất hối quá kinh,[1] hay Phật thuyết Văn-thù hối quá kinh.[2] Sau đó kinh Tạp A-hàm và Tăng nhất A-hàm dịch cả hai từ “hối quá 悔過” và “sám hối 懺悔”, vân vân. Và từ “phát lồ” (to utter and disclose), là tiết lộ, phơi bày, tức khi phạm tội liền nói ra, không che giấu. Nó đi chung với từ hối quásám hối. Ví dụ luật Tứ phần ghi: Nếu không chịu phát lồ sám hối thì tội chưa được diệt trừ.[3]

Trong Luật tạng cũng dịch từ “sám hối” rất nhiều như luật Ngũ phầnTăng-kỳTứ phầnThập tụng v.v… Riêng luật của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ (Mūlasarvāstivāda) do Nghĩa Tịnh dịch, chúng ta thấy xuất hiện thưa thớt vài chỗ dịch là sám hối, còn lại ông đều phiên âm theo từ Phạn là “sám-ma 懺摩” (kṣama).

Theo Nghĩa Tịnh chỉ dịch âm từ kṣama thành sám-ma có hai lý do: Thứ nhất, nếu trong sinh hoạt thường nhật, chúng ta lỡ đụng chạm, xúc phạm, hay làm ai đó buồn, tổn thương… thì chúng ta dùng từ sám-ma (kṣama), nó có nghĩa: “cầu xin sự tha thứ của bạn” (beg your pardon), “xin đừng tức giận” (please do not be angry). Thứ hai, khi mình gây ra tội lỗi gì, có tâm xấu hổ (tàm quý 慚愧) không che giấu, thì xin người khác khoan dung, tha thứ cho mình. Và khi đối diện với người khác, người phạm tội nói lên rằng: “Tôi thú nhận hành vi phạm tội của mình với tâm chí thành” (chí tâm thuyết tội 至心說罪).

Do từ gốc tiếng Phạn phức tạp nên Nghĩa Tịnh dịch âm và có lời chú thích trong bản dịch. Ông giải thích thêm, từ sám-hối là cách dịch ghép, từ “sám” (cắt âm tiết của từ sám-ma, kṣama) ráp với “ăn năn” (hối 悔) của tiếng Trung Quốc, thành “sám-hối” là không đúng. Theo ông, chữ “sám” đứng trước mới có một âm tiết của tiếng Phạn không có nghĩa, nên từ “sám-hối” chỉ có thể định nghĩa theo chữ “hối”, tức hiểu là “ăn năn”. Mà “ăn năn” hàm nghĩa hối hận, cắn rứt việc mình làm, chứ chưa nói cho ai biết; như phạm tội còn giấu trong lòng, chưa báo chính quyền, chưa đi thú tội.[4]

Tóm lại, chúng ta tạm hiểu, từ hối quá, hay sám hối đều có nghĩa là sự ăn năn của những vi phạm. Đây là cách dịch cho người đọc dễ hiểu. Tuy nhiên đó chưa phải là cách thức sám hối của người xuất gia, vì người xuất gia khi phạm giới phải áp dụng hình thức sám-ma, nghĩa là luôn luôn phải nói rõ tội trạng mình đã phạm (thuyết tội) trước một tỳ-kheo thanh tịnh hay đối trước chúng Tăng thanh tịnh.

2. Thuyết tộihình thức sám hối của người xuất gia:

Thuật ngữ “chí tâm thuyết tội” theo nghĩa Phạn là āpatti-pratideśana; “āpatti” nghĩa là tội lỗi hoặc xúc phạm, “pratideśana” là thú nhận trước người khác.[5]

Thuyết tội như pháp cần hội đủ ba yếu tố hiện tiền: a). Hiện tiền nhân, đối tượng hướng đến để thuyết tội phải đủ túc số quy định và người phạm tội thuyết tội phải hiện diện, không có trường hợp vắng mặt; b). Hiện tiền sự, tội danh phải được xác định; người thuyết tội phải nói rõ vi phạm điều nào trong học xứ; c). Hiện tiền pháp, nghi thức tiến hành.

Trong luật Thanh văn, thuyết tội có ba hình thức: Tâm niệm, đối thú và Tăng pháp. Tâm niệm đối với các vi phạm nhẹ theo luật quy định; hoặc trường hợp chung quanh không có ai để hành pháp thuyết tội do đó tự thuyết bằng tâm niệm. Bởi vì, nếu phạm tội mà không phát lồ ngay trong ngày, để sang ngày khác thì phạm tội che giấu (phú tàng). Vì điều kiện khách quan, không thể phát lồ trong ngày, do đó tự thuyết tội bằng thủ tục tâm niệm. Đối thú, là đối trước một tỳ-kheo thanh tịnhthuyết tội. Tăng pháp, là đối trước Tăng. Bấy giờ tùy theo tội mà Tăng tác pháp Yết-ma loại nào cũng theo luật quy định. Sau khi thỉnh cầu thuyết tội, giới thể sẽ được phục hồi thanh tịnh.[6]

Qua cách thức trên chúng ta có thể suy đoán, việc sám hối nói cho người khác nghe có từ thời Phật, từ truyền thống văn hóa Ấn, như câu chuyện vua A-xà-thế (Ajātaśatru) sau khi giết hại vua cha, hồi tâm tĩnh trí, đối trước Phật sám hối (hối quá 悔過), chính là hình thức thuyết tội.[7] Ngày nay, chúng ta thấy tín đồ Cơ-đốc giáo (Christian) xưng tội trước Linh mục (The priest) phải chăng ảnh hưởng phần nào từ cách thức này.

Nhưng, luật Phật chế định luôn gắn kết với luật đời. Một tỳ-kheo phạm giới, xem mức độ phạm tộiliên hệ gì đến người bị hại, hay ảnh hưởng ra sao với đời sống xã hội xung quanh; nếu đạo đứcluật pháp thế gian đã không chấp nhận, thì Phật giáo phải xử án kịch tính hơn, trục xuất tỳ-kheo ấy ra khỏi Tăng đoàn. Vậy đối với tội ba-la-di nếu phạm có tha thứ được hay không? Như một số nước hiện nay vẫn duy trì mức án tử hình, mục đích tạo hình phạt răn đe với các loại tội phạm nghiêm trọng và nhằm giữ gìn an ninh cho xã hội. Cho nên ý nghĩa sám hối dành cho người tu dù từ bi cũng không thể thiếu công lýnghiêm minh.

II. PHẠM BA-LA-DI SÁM HỐI ĐƯỢC HAY KHÔNG?

1. Lược dẫn tư liệu từ bài viết trên mạng:

Tác giả nêu một số tư liệu kể tội ba-la-di có thể sám hối như sau:

Theo luật Ma-ha-tăng-kỳ quyển 1 (bản Việt dịch HT. Thích Phước Sơn): … Những tội đã phạm không chịu phát lồ sám hối, nên gọi là ba-la-di.

Kinh tạng Nikaya, Tăng chi, chương Bốn pháp, phẩm Nghiệp, kinh Phạm tội:… Phật dạy, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni nếu phạm tội phải như pháp sám hối pháp ba-la-di.

Kinh Đại bát-niết-bàn, quyển thứ 10: Phạm bốn tội nặng và năm tội nghịch có thể sám hối.

Kinh Đại bảo tích, quyển thứ 90: Bồ-tát phạm ba-la-di thì nên đối trước mười vị tỳ-kheo thanh tịnh rồi dùng tâm chất trực mà ân trọng sám hối.[8]

Luật Ma-ha-tăng-kỳ quyển 26: Tăng tác pháp yết-ma cho học hối ba-la-di.

Pháp sám hối trong tác phẩm Một số vấn đề về giới luật (HT. Thích Phước Sơn biên soạn, 2010, tr. 127): Tỳ-kheo nào phạm tội ba-la-di, ngoại trừ tội giết người, mà có tâm tàm quýhối hậnquyết chí sửa chữa, bạch với Tăng chúng ngay sau khi phạm, thì Tăng chúng sẽ tập hợp ít nhất là 20 tỳ-kheo, bạch tứ yết-ma (một lần bạch, ba lần biểu quyếtban cho vị ấy pháp “Học hối ba-la-di” hay “Dữ học ba-la-di”. 

Cuối cùng thầy kể thêm: Tứ phần luật san phồn bổ khuyết hành sự sao của Đạo Tuyên biên soạn, chỉ đề cập đến việc sám hối tội dâm ba-la-di mà không đề xuất ba trọng tội còn lại. Đặc biệt, trong tác phẩm Tứ phần luật tỳ-kheo-ni sao, quyển hạ, ngài còn lưu ý rằng, pháp thức sám hối tội ba-la-di vẫn được phép tiến hành đối với tỳ-kheo-ni.

Những tư liệu mà tác giả dẫn chứng chúng tôi sẽ trình tự lý luậnđánh giá lại trong nội dung tiếp theo dưới đây.

2. Gánh nặng chứng minh:

Trong vấn đề sám hối tội ba-la-di, chúng tôi phân chia ra ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất vào thời kỳ Phật tại thế. Giai đoạn thứ hai là thời gian Phật giáo bộ pháigiai đoạn cuối cùng là bối cảnh xã hội hiện nay.

Thời kỳ Phật tại thế đầy đủ bằng chứng xác thực là không có quy định sám hối tội ba-la-di. Chúng ta hãy xem lại một “nghi án” kinh động thời ấy:

Trong luật Thập tụng (pp. 239b7 – 240a19), Tứ phần (pp. 824a7 – 825a11), Ngũ phần (pp. 180c22 – 181a28), Pāli: IX, 1-2, Căn bản ([bản Phạn] pp. 107, 4 seq.), Tăng-kỳ (p. 447b11-c2); kinh 37 trong Trung A-hàm (Madhyamāgama, T. 1, p. 478b) và Tăng chi bộ (Aṅguttaranikāya), phần VIII, kinh 20 (Uposatha) kể lại rằng:

Vào buổi sáng nọ, Tăng đoàn tập hợp hành lễ bố-tát, nhưng đức Phật không tụng đọc Prātimokṣa (Pāli: Pāṭimokkha, Ba-la-đề-mộc-xoa, Biệt giải thoát) mặc dù Ānanda đã nhiều lần cầu thỉnh đức Phật thuyết giới. Cuối cùng, đức Phật tuyên bố, trong hội chúng có tỳ-kheo không thanh tịnh. Maudgalyāyana (Mục-kiền-liên) dùng thần thông quảng đại của mình tìm kiếm tỳ-kheo nào không thanh tịnh và dẫn ông ta ra ngoài. Sau đó đức Phật tuyên bố, từ đây về sau Ngài sẽ không chủ trì buổi lễ bố-tát cũng như tụng đọc Prātimokṣa nữa, mà Tăng đoàn phải tự làm điều đó.

Kinh Trung A-hàm thuật, Đại Mục-kiền-liên lôi tỳ-kheo đó ra ngoài và nói: “Này người ngu si, hãy đi xa đi, đừng sống ở đây, không được trở lại hội họp với đại chúng tỳ-kheo, từ nay trở đi ông không phải là tỳ-kheo nữa.

Câu nói: “Đừng sống ở đây (mạc ư thử trụ 莫於此住)”, luật Tứ phần, Ngũ phần: Ngươi, đi ra khỏi đây, đi mất đi, ngươi chớ sống ở đây (汝, 出去滅去, 汝不應此中住). Pāli: natthi te bhikkhūhi saddhiṃ saṃvāso, “ông không còn sống chung với các tỳ-kheo”. Tham chiếu các bản đều chép tôn giả Mục-kiền-liên trục xuất tỳ-kheo này ra khỏi Tăng. Sự kiện lịch sử đó cho đến nay không ai biết tỳ-kheo kia phạm tội gì, nhưng chắc chắc phạm tội ba-la-di mới bị trục xuất ra khỏi Tăng đoàn.

Câu chuyện trên rất trùng khớp với quy định của Phật chế trong giới ba-la-di: nếu tỳ-kheo (tỳ-kheo-ni) phạm ba-la-di thì không được sống chung. Sống chung, sinh hoạt chung, Pāli: saṃvāso, trong các bản Hán dịch: trú (trụ) 住. Còn không được sống chung, Pāli: asaṃvāsa, Hán dịch: Bất cộng trú 不共住.

Luật Pāli giải thích: Đồng nhất yết-ma, đồng nhất thuyết giới, cùng tu học gọi là sống chung. Không sống chung là ngược lại. Ngũ phần và Tứ phần định nghĩa tương tự.[9]

Luật Thập tụng và Căn bản định nghĩa: Không cùng tỳ-kheo tác pháp, như bạch yết-ma, bạch nhị, bạch tứ, bố-tát, tự tứ, không tính số 14, 20 người.[10]

chính Nghĩa Tịnh ghi trong cuốn nhật ký của mình nói rất rõ, phạm vào thiên tội đầu tiên (tội ba-la-di) không thể sám hối được.[11]

(Còn tiếp)

Mùa an cư Phật lịch 2566 (18 tháng 6 năm Nhâm Dần).
Cittacakkhu


[1] 佛說舍利弗悔過經, Śāriputra kṣamā sūtra, T. 24, No. 1492, An Thế Cao (Parthamasiris, người nước Parthia (An Tức) dịch vào đời Hậu Hán, khoảng thế kỷ thứ 2, A.D. 148-170.

[2] 佛說文殊悔過經, The Buddhabhāshita Mañjuśrī kṣamā sūtra, Trúc Pháp Hộ (Dharmarakṣa) dịch đời Tây Tấn, A.D. 266 và 317.

[3] 四分律 22, T22, no. 1428, p. 716b7: 若不發露懺悔, 罪未除.

[4] Cf. 根本說一切有部毘奈耶 15, T23, no. 1442, p. 706a8; 南海寄歸內法傳 2, T54n2125, p. 217c15-22.

[5] 南海寄歸內法傳 2, p. 217c15-22.

[6] Cf. Tuệ Sỹ, Du-già Bồ-tát giới, 2015, p. 166-168.

[7] 長阿含經 17, T01, no. 1, p. 109b12.

[8] 大寶積經 90, T11, no. 310, p. 515c18-19: 復次舍利弗!若有菩薩犯波羅夷者,應對清淨十比丘前,以質直心殷重懺悔.

[9] 四分律 1, T22, no. 1428, p. 571c8; 彌沙塞部和醯五分律 1, T22, no. 1421, p. 4c23.

[10] 十誦律 1, T23, no. 1435, p. 2c19; 根本說一切有部毘奈耶 1, T23, no. 1442, p. 630c11.

[11] Nam hải ký quy nội pháp truyện 2, p. 217c13: Sơ thiên nhược phạm, sự bất khả trị 初篇若犯, 事不可治.

Xem:
– Phần I
– Phần III

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2026)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3032)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2646)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3553)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3379)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4219)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3736)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4276)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2358)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3530)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4213)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3995)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2921)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3409)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3527)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4590)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3924)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4815)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4083)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3063)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3803)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3953)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3124)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3648)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4496)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3763)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2304)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2667)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3072)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2761)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4634)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4977)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2870)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5378)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2896)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3334)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4420)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4982)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4746)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3289)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4594)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4316)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6183)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3541)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4077)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6057)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5455)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4105)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33331)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3213)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4200)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4769)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3135)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3852)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3589)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6607)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2817)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3272)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4634)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3498)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant