Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Ký Sự Chùa Hương

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 11888)
04. Ký Sự Chùa Hương

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG II
Ký Sự CHÙA ƠNG
(Đệ nhất danh lam thắng cảnh Việt Nam)

Bầu trời cảnh Bụt

Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kià non non, nưóc nước mây mây

"Đệ nhất động" hỏi là đây có phải?

Thỏ thẻ rừng mai chim cùng trái

Lững lờ khe Yến cá nghe kinh

Thoảng bên tai một tiếng chày kình

Khách tang hải giật mình trong giấc mộng!

Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng. 

"Chu Mạnh Trinh"

blankMỗi lần tôi trở về quê đi tới đâu tôi luôn luôn có ý niệm tìm hiểu các di tích lịch sử để chiêm ngưỡng, học hỏi hầu mở rộng tầm mắt nhìn về những danh lam thắng cảnh, nơi quê hương ngàn năm văn vật mà bao đời của tổ tiên, ông bà, cha mẹ và chính bản thân mình đã sinh ra, trưởng thành trong thời thanh bình cũng như lúc chinh chiến, nơi quê nhà.

Tôi sẽ lần lượt cống hiến quý độc giả bốn phương các nơi tôi đã đến với cảm nghĩ của mình, riêng bài này tôi mời quý vị cùng tôi đến thăm Chùa Hương Tích "Đệ nhất danh lam thắng cảnh của Việt Nam" Trong tác phẩm "Trở Về Cội Nguồn". Tôi xuất bản vào đầu thiên niên kỷ mới năm 2000, và nhà sách Văn Nghệ Tổng Phát Hành, hiện có bán tại các tiệm sách, tôi có nói về: "Những kỷ niệm khó quên với cảm nghĩ của lúc thiếu thời về Trẩy hội Chùa Hương, nhưng bài này tôi viết Chùa Hương với cảm nghĩ của tuổi đời trên thất thập cổ lai hy". Đặc biệt, tôi đã dầy công sưu khảo, tìm hiểu với nhiều tư liệu giá trị để phong phú hoá bài ký sự này hầu lưu truyền lại cho các thế hệ mai sau biết về một thắng tích tuyệt vời mà mỗi năm có cả hàng triệu người từ bốn phương trên khắp thế giới đổ về chiêm bái, tham quan và lễ Phật trong suốt 3 tháng, giêng, hai, ba đó là mùa "Trẩy hội Chùa Hương".

- ĐỊA THẾ HƯƠNG SƠN:

Dẫy núi Hương Sơn ở bên sườn đông của dẫy núi đá vôi chạy từ Phong Thổ, Lai Châu, Sơn La, Mộc Châu xuống đến Hà Tây, Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, hang động bao bọc Hương Sơn ở phía tây Nam sông Đáy (một phụ lưu cấp 1 của sông Hồng) chạy theo hướng Bắc - Đông. Giữa sông núi (sơn thủy) là cả một hệ khe, nối suối ngầm (Suối Tuyết, Suối Yến) dẫn nước qua lại cung cấp cho Thung Dâu, Thung Mơ… phơi trải nước của các hang động. Những khe núi này là nguồn cung cấp nước cho sông Đáy thuộc miền Bắc Việt Nam. 

Bên trong dãy núi nuớc chảy xói mòn khoét thành nhiều hang động, có một ngọn núi nối liền là thắng cảnh lâu đời - Động núi Hương Tích - Theo tương truyền rằng: Đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát trước ngày tu hành rồi thành Phật tại đây. (Xin xem bài sự tích Quan Thế Âm).

Động Hương Tích còn gọi là Động Hương Sơn, ở vào địa phận Huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây tiếp giáp với tỉnh Hà Nam, miền Bắc Việt Nam. Người ta thường nói:
 "Đường vào Hương Tích lượn quanh,
 Nước non gấm dệt, mầu xanh phủ màn.
 Người niệm Phật khách tham quan.

 Suối thanh tịnh, rửa nhẹ nhàng trần duyên"

blankTrước khi vào vãng cảnh Chùa Hương, mọi du khách đều phải đến bến Đục và từ đây mọi người mới xuống đò (ba lá), hàng trăm chiếc (ghe) thuyền nho nhỏ bằng thiếc vỏ dầy 2 ly, hoặc bằng gỗ, mỗi chiếc chở chỉ được 5 hoặc 7 người, quang cảnh bến đò lúc này thật là nhộn nhịp, từng đoàn, lại từng đoàn người đi xuống các thuyền này, mỗi thuyền (ghe) có một cô lái đò chèo thuyền ra đi dọc theo suối Yến. (có người gọi là suối Mơ). Trong cảnh đẹp Hương Sơn, những dòng suối có một vai trò hết sức quan trọng nó lôi cuốn du khách một cách vô cùng hấp dẫn. Chính vì thế mà từ thời xa xưa chúa Trịnh Sâm đã khắc trên tấm bia đá bốn chữ "Sơn Thủy Hữu Tình".

Sau đây tôi xin mô tả những cảnh đẹp của dòng suối Yến: Suối Yến có những nét đặc thù riêng ở một địa danh vô cùng hấp dẫn nó không đẹp ở sự mênh mông, mà đẹp ở sự buông thả hiền hòa giữa hai triền núi, đường suối không xa lắm nhưng trông như không có chỗ tận cùng, quanh co lượn qua lượn lại chạy theo các dẫy núi hai bên bờ suối còn có những ruộng lúa nước bao la, ban ngày, ban đêm lúc nào cũng đẹp như mơ, cho nên còn có tên là Suối Mơ, những chiếc thuyền thoi của các cô gái làng Yến, vừa xinh đẹp vừa khoẻ mạnh ngày thường chở lúa, chở gạch, chở củi, chở cá… đến mùa Xuân lại chở khách thập phượng đến vãng cảnh chùa.

Trong cái trạng thái vui say ấy, các du khách thường gặp nhau trong những ánh mắt lời thơ với những tiếng cười dòn như pháo trên các con thuyền du Xuân dọc theo Suối Yến, Ta đồng hành với những vạt lúa xanh viền hai mép suối, trên dòng nước xanh trong veo, những đám rong mềm mại lay động dưới lòng suối, với những con le, con cốc thỉnh thoảng bay vù từ mặt nước…

Bây giờ tôi cùng quí độc giả ta hãy nhìn lên trên hai dãy núi, phía bên trái, kìa núi Đụn, cao cao và nây tròn như một hột thóc. Núi Đụn còn là đuôi của một con rồng, dãy núi Hàm Rồng, gần núi Đụn là núi Soi, giống như con Kỳ Lân, còn gọi là núi Lân, gần núi Soi là núi Ái, là núi Phượng đang rộng cánh. Chỗ đầu và mỏ Phượng là động - chùa Thanh Sơn, hai cánh nó là hai chỏm núi, quá chút nữa là đến núi Đổi Chèo. Ghe (đò) ra, ghe vào đến quãng này nhất thiết các cô gái phải đổi tay chèo cho nhau, đỡ mỏi. Núi đổi chèo giống như một con trăn lớn đang bò trên mặt nước. Gần núi Đổi Chèo là núi Bưng. Gần núi Bưng là núi Voi. Núi Voi còn có một câu chuyện kể rằng:

Hương Sơn có một trăm ngọn núi thì 99 ngọn nghiêng đầu về phía động Hương Tích để tỏ lòng ngưỡng mộ. Đúng như câu thơ: "Núi xô về cửa động." Chỉ riêng một tên Voi bướng bỉnh, vô lễ quay đầu ra, quay mông vào. Ông Hộ Pháp giận quá lấy gươm phạt một mảng mông của tên voi. Bây giờ tên Voi vẫn mất một mảng mông.

LỊCH SỬ CHÙA HƯƠNG:

Tôi mời quý độc giả hãy cùng tôi tìm hiểu sơ qua về lịch sử của Hương Sơn, để có một khái niệm tổng quát về địa danh, thắng cảnh tuyệt đẹp mà nay đã được gắn liền với 5 chữ "Nam Thiên Đệ Nhất Động". Non sông đất nước Việt Nam có biết bao nhiêu danh lam thắng cảnh do thiên nhiên tạo thành và cũng không ít những thắng cảnh do nhân tạo. Tuy nhiên, Chúa Trịnh Sâm là người đã nổi tiếng hay chữ và sành sỏi các thú du ngoạn xưa kia đã không phẩm bình Hương Sơn là một chốn "Sơn thuỷ hữu tình" (chữ đề bên suối Yến). Hay "Kỳ sơn tú thủy" (chữ đề bên suối Tuyết) mà còn phong cho Hương Sơn là "Nam Thiên Đệ Nhất Động". Hàm "đệ nhất" mà Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm dành cho Hương Tích vừa là sự so sánh, vừa là một sự khẳng định một chốn cảnh đẹp tuyệt vời mà không đâu sánh nổi trên đất nước ta. 

Đã trải qua hàng chục thế kỷ trước đây cho đến ngày nay, các nhà khảo cổ vẫn chưa tìm hiểu nhiều về vùng đất Hương Sơn, nhưng những cảnh quan sinh thái và di tích đã phát hiện trên đất Hà Tây được biết, trên đất Hương Sơn xưa kia đã sớm có dấu tích của con người. Nhưng nhận biết ra Hương Sơn như một cảnh quan thẩm mỹ và tâm linh, người ta nói nhiều đến truyền thuyết về một bộ tướng của Vua Hùng đời thứ 16 (Hiển Quan) đến xây Hương Tích, Bếp Trời (thiên Trù). Hay truyền thuyết bên bờ Suối Yến về một chàng trai tên Hùng Lang cùng thời với Ông Gióng cũng tham gia đánh giặc Ân, có công diệt được tướng giặc Thạch Linh, khi chết được phong làm phúc thần làng Yến Vĩ.

blank

Nhưng cứ theo sách "Hương Sơn Ký" của Nguyễn Uông người làng Thanh Oai (Hà Tây) làm đốc học Nam Định thì đến (Khoảng đời Hồng Đức (1470-1496) con đường vào Hương Sơn mới được mở… Nhờ đó mà phong cảnh kỳ thú của núi rừng mới lộ ra, rồi trở thành một kỳ quan lớn trong vũ trụ. Chính sức hấp dẫn của cảnh quan thiên nhiên Hương Sơn đã bồi đắp cho danh thắng này một giá trị lịch sử và đã trở thành nơi hội tụ của những danh nhân lịch sử về văn hoá dân tộc của những bậc đế vương còn lưu lại nơi các bia đá với những nét chữ để đời và những bài thơ Nôm hay Hán của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm vào năm Canh Dần (1770) người ta đã biết đến dấu tích của các bà Chúa, vợ của Trịnh Căn đã góp công, của để xây dựng các Chùa.

Các tao nhân mặc khách đến với Hương Sơn thường có những bài thơ còn để lưu truyền lại cho các thế hệ kế tục am hiểu được những cảnh quan tuyệt vời của Hương Sơn như: Chu Mạnh Trinh, Ngô Thi Sĩ, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Cao, Cao Bá Quát, Bùi Di, Bùi Kỷ… rồi đến thế hệ Tản Đà, Xuân Diệu, Chế Lan Viên... Không kể đến những huyền tích về thời các Vua Hùng mà những chiếc trống đồng còn lưu lại nơi đây, trong đó có chiếc trống đồng tìm được ở Thượng Lâm (Mỹ Đức năm 1934) mang truyền thuyết là món quà của Đinh Tiên Hoàng tăïng cho dân làng cùng với dấu tích của con đường mang tên Vua Đinh.

blankCả một vùng thiên nhiên hùng vĩ và tuyệt đẹp của Hương Sơn kể từ khi được vua Lê Thánh Tông, vị vua sáng chói của Triều Lê phát hiện, đến nay đã trải qua đúng nửa thiên niên kỷ. Thời gian ấy, bên cạnh những huyền thoại, những truyền thuyết trải qua của một thời lịch sử xa xưa, cũng đã đủ để tạo dựng lên một bề dầy truyền thống với những giá trị lịch sử. Không những giữ gìn cảnh quan thiên nhiên, đó là món quà của đất Mẹ trao cho hiện hữu, mà còn cả những di sản tinh thần đã được hun đúc từ khí thiêng sông núi, khí phách của các bậc tiền bối để lại cho cảnh quan Hương Sơn có cả bề rộng của không gian và bề dầy của lịch sử.

Đến chùa Hương tất cả các du khách từ bốn phương đổ về gặp nhau trong một trái tim. Cảnh sơn núi hữu tình, nên thơ. Trai gái trẻ già dập dìu dắt nhau lên chùa lễ Phật thật là "Bầu Trời Cảnh Bụt" bao la với những đoàn thiện nam, tín nữ từ khắp nơi đổ về hành hương chiêm bái, như thơ Tản Đà đã diễn tả:

Chùa Hương trời điểm lại trời tô
Một bức tranh tình trải mấy thu

Xuân lại, Xuân đi bao dấu vết

Ai về, ai nhớ vẫn thơm tho.

Phong cảnh chùa Hương thật hữu tình, thơ mộng nhớ đến Bến Đục, Suối Yến, với giòng nước chảy nhẹ nhàng trên sông, in bóng những dãy núi chập chờn tô điểm cảnh thiên nhiên.

Theo tôi, những người Việt Nam cần phải tìm hiểu về các danh lam thắng cảnhquê nhà để mở rộng kiến thức và tầm hiểu biết về quê hương của mình, nhất là "Nam Thiên Đệ Nhất Động". Đời người ít nhất cũng phải du xuân chùa Hương một lần để chiêm ngưỡng phong cảnh tuyệt đẹp của Hương Sơn mà Chu Mạnh Trinh đã diễn tả với những giòng thơ như:

Kìa non non, nước nước mây mây
"Đệ nhất động" hỏi là đây có phải?

Thỏ thẻ rừng mai chim cùng trái

Lững lờ khe Yến cá nghe kinh

Thoảng bên tai một tiếng chày kình(1)

Khách tang hải giật mình trong giấc mộng!

Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng

Này am Phật Tích, này động Tuyết Kinh

Nhác trông lên ai khéo vẽ hình.

Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt

Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt

Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây

Chừng giang sơn còn đợi ai đây

Hay tạo hoá khéo ra tay xếp đặt

Lần hạt tràng niệm: Nam mô Phật

Cửa từ bi công đức biết là bao

Càng trông phong cảnh càng yêu.

(1) Chày kình: Cái chày đánh chuông, làm theo hình con cá kình.

Hay là chơi động Hương Tích của Trịnh Sâm đã diễn tả như sau:

Trời vừa hé sáng, bước lên thuyền
Khoan mái chèo lan, ghé bến tiên

Phong nguyệt thờ ơ bầu ngọc đúc

Giang Sơn bỡ ngỡ, bức tranh in

Kìa kìa qui phượng ngong kinh bối (1)

Nọ lân lòng lắng gió thiền (2)

Cảnh lạ thú màu khôn xiết kể

Thanh kỳ đệ nhất chốn Nam thiên.

(Tâm thanh tồn duy thi tập)
 

(1)Kinh bối: Kinh Phật viết trên lá bối
(2)Thiền: Nhà chùa, giáo thiền tức là giáo lý của nhà chùa.

Sau đây tôi xin mời quí độc giả hãy cùng tôi đi tìm hiểu một số di tích, lịch sử và những đặc tính tiêu biểu của Phật Giáo tại Hương Sơn để cùng nhau suy ngẫm về cảnh tích tuyệt vời, có một không hai của quê nhà:

- Phật Giáo đã đến với Hương Sơn từ bao giờ?

Nơi đây đạo Phật được truyền vào ngay từ khi phát hiện ra hang động Hương Sơn. Theo một số tài liệu chúng tôi khảo cứu thì vào đời Lê Thánh Tông thế kỷ thứ XV, có 3 vị Hòa Thượng chống tích Trượng tới đây tu hành, hàng ngày vào động Hương Tích lễ tụng, toạ thiền, tối lại ra khu vực Thiên Trù ngủ nghỉ. Hồi đó, Thiên Trù là một thung lũng hoang vu, 3 vị Hòa Thượng lần lượt dựng lên một thảo am để trú ngụ tránh mưa nắng, sau một thời gian 3 vị Hòa Thượng viên tịch thì nơi đây gián đoạn trụ trì. Tên tuổi các ngài cũng không ai nhớ rõ. Di tích của các ngài để lại đến nay chỉ còn lại là 2 ngôi mộ cổ bằng đá xanh, được đục đẽo thô sơ trong vườn tháp Thiên Trù. Ngày khoa cúng cổ ở Hương Sơn cũng chỉ gọi là "Kị Tổ Bồ Tát" và các ngài thuộc dòng phái nào cho đến nay vẫn chưa ai biết rõ.

Đến năm 1687 - niên hiệu Chính Hoà mới có Hòa Thượng Trần Đạo Viên Quang ở Ty Tăng Lục (thời Lê lập ra Ty Tăng Lục để coi sócquản lý các vị tu hành) chống thiền trượng tới đây mới lập cảnh Phật ở Hương Sơn, tiếp theo là các vị Hòa Thượng Viên Quang, trụ trì khoảng 20 năm, Đaị Sư Thông Lâm thuộc giòng Thiền Lâm Tế, Hòa Thượng Thanh Quyết, HT Thanh Hữu… HT Thanh Quyết là một vị danh tăng đương thời, học thức uyên bác, phẩm hạnh thanh cao. Các nho sĩ bấy giờ đã tôn là "Tăng Trung Hào Kiệt".

Tiếp theo là các vị HT Thích Thanh Tích, Đại Sư Thanh Tích tu tập Đại bi Chân Ngôn và trì tụng Đại bi Bát Nhã, hoàng truyền Phật Pháp đồng thời đã đào tạo hàng trăm đệ tử danh tăng như các HT Tố Liên, Thanh Chân, Thanh Uẩn, Thanh Khánh, Thanh Nga, Thanh Châu…

Lịch sử đất nước cũng có lúc thăng trầm, nhưng không thể bị huỷ diệt, con người cũng có lúc lên lúc xuống, đường đời thật là chông gai, nhưng rồi cũng vượt qua.

Phật Giáo cũng vậy, đã trải qua 2000 năm trên đất nước VN là một chứng tích, đất nước thăng trầm thì Phật Giáo cũng nổi trôi theo sự tiến hóa của một dân tộc. Do đó, văn hóa Phật Giáo đã gán liền với văn hóa dân tộc Việt Nam vậy.

blankKhi các Thiền Sư chống tích trượng, dựng thảo amHương Sơnxây dựng nơi qui ngưỡng các du khách thập phương vân tập về chiêm bái ngôi Tam Bảo, tô bồi nơi danh lam của đất nước cho thế nhân du ngoạn. Có như vậy là đã làm tròn trọng trách giữa Đạo Phật và Dân Tộc. Giáo lý Phật Giáo đã tùy duyên bất biến ăn sâu vào lòng dân Việt từ thế hệ này đến thế hệ khác. Nền văn hóa Phật GiáoHương Sơn đã được bản địa hóa nhận thức của con người đương thời. Đức Quan Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvaha Boddhisattva) đã thành Phật Bà Chùa Hương, hình ảnh một người mẹ với tình thương bao la trong lòng người dân Việt.

Mỗi độ Xuân về thì lòng người lại thao thức rủ nhau đi "Trẩy Hội Chùa Hương" các du khách khi đến đây mới thấy "Bầu trời cảnh Bụt". Sau đây tôi xin mượn 4 câu thơ của Tản Đà để kết thúc bài Ký Sự này:

Chùa Hương trời điểm lại trời tô
Một bức tranh tình trải mấy thu
Xuân lại, Xuân đi bao dấu vết
Ai về, ai nhớ vẫn thơm tho.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4028)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5212)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2678)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6157)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3071)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3121)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3327)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3254)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3311)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4579)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2744)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5238)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3892)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3857)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3222)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4161)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5075)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3536)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6769)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3981)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3235)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3114)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2977)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5888)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4649)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3509)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2913)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3323)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4444)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5741)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6658)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3742)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4547)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4627)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3990)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3416)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4656)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6080)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5857)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3653)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4705)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4473)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4548)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4282)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4614)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8239)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3938)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5736)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5227)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6876)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6199)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6010)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5826)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6315)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6806)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4992)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5584)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6411)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3803)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5441)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant