Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Ký Sự Chùa Hương

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 11935)
04. Ký Sự Chùa Hương

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG II
Ký Sự CHÙA ƠNG
(Đệ nhất danh lam thắng cảnh Việt Nam)

Bầu trời cảnh Bụt

Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kià non non, nưóc nước mây mây

"Đệ nhất động" hỏi là đây có phải?

Thỏ thẻ rừng mai chim cùng trái

Lững lờ khe Yến cá nghe kinh

Thoảng bên tai một tiếng chày kình

Khách tang hải giật mình trong giấc mộng!

Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng. 

"Chu Mạnh Trinh"

blankMỗi lần tôi trở về quê đi tới đâu tôi luôn luôn có ý niệm tìm hiểu các di tích lịch sử để chiêm ngưỡng, học hỏi hầu mở rộng tầm mắt nhìn về những danh lam thắng cảnh, nơi quê hương ngàn năm văn vật mà bao đời của tổ tiên, ông bà, cha mẹ và chính bản thân mình đã sinh ra, trưởng thành trong thời thanh bình cũng như lúc chinh chiến, nơi quê nhà.

Tôi sẽ lần lượt cống hiến quý độc giả bốn phương các nơi tôi đã đến với cảm nghĩ của mình, riêng bài này tôi mời quý vị cùng tôi đến thăm Chùa Hương Tích "Đệ nhất danh lam thắng cảnh của Việt Nam" Trong tác phẩm "Trở Về Cội Nguồn". Tôi xuất bản vào đầu thiên niên kỷ mới năm 2000, và nhà sách Văn Nghệ Tổng Phát Hành, hiện có bán tại các tiệm sách, tôi có nói về: "Những kỷ niệm khó quên với cảm nghĩ của lúc thiếu thời về Trẩy hội Chùa Hương, nhưng bài này tôi viết Chùa Hương với cảm nghĩ của tuổi đời trên thất thập cổ lai hy". Đặc biệt, tôi đã dầy công sưu khảo, tìm hiểu với nhiều tư liệu giá trị để phong phú hoá bài ký sự này hầu lưu truyền lại cho các thế hệ mai sau biết về một thắng tích tuyệt vời mà mỗi năm có cả hàng triệu người từ bốn phương trên khắp thế giới đổ về chiêm bái, tham quan và lễ Phật trong suốt 3 tháng, giêng, hai, ba đó là mùa "Trẩy hội Chùa Hương".

- ĐỊA THẾ HƯƠNG SƠN:

Dẫy núi Hương Sơn ở bên sườn đông của dẫy núi đá vôi chạy từ Phong Thổ, Lai Châu, Sơn La, Mộc Châu xuống đến Hà Tây, Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, hang động bao bọc Hương Sơn ở phía tây Nam sông Đáy (một phụ lưu cấp 1 của sông Hồng) chạy theo hướng Bắc - Đông. Giữa sông núi (sơn thủy) là cả một hệ khe, nối suối ngầm (Suối Tuyết, Suối Yến) dẫn nước qua lại cung cấp cho Thung Dâu, Thung Mơ… phơi trải nước của các hang động. Những khe núi này là nguồn cung cấp nước cho sông Đáy thuộc miền Bắc Việt Nam. 

Bên trong dãy núi nuớc chảy xói mòn khoét thành nhiều hang động, có một ngọn núi nối liền là thắng cảnh lâu đời - Động núi Hương Tích - Theo tương truyền rằng: Đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát trước ngày tu hành rồi thành Phật tại đây. (Xin xem bài sự tích Quan Thế Âm).

Động Hương Tích còn gọi là Động Hương Sơn, ở vào địa phận Huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây tiếp giáp với tỉnh Hà Nam, miền Bắc Việt Nam. Người ta thường nói:
 "Đường vào Hương Tích lượn quanh,
 Nước non gấm dệt, mầu xanh phủ màn.
 Người niệm Phật khách tham quan.

 Suối thanh tịnh, rửa nhẹ nhàng trần duyên"

blankTrước khi vào vãng cảnh Chùa Hương, mọi du khách đều phải đến bến Đục và từ đây mọi người mới xuống đò (ba lá), hàng trăm chiếc (ghe) thuyền nho nhỏ bằng thiếc vỏ dầy 2 ly, hoặc bằng gỗ, mỗi chiếc chở chỉ được 5 hoặc 7 người, quang cảnh bến đò lúc này thật là nhộn nhịp, từng đoàn, lại từng đoàn người đi xuống các thuyền này, mỗi thuyền (ghe) có một cô lái đò chèo thuyền ra đi dọc theo suối Yến. (có người gọi là suối Mơ). Trong cảnh đẹp Hương Sơn, những dòng suối có một vai trò hết sức quan trọng nó lôi cuốn du khách một cách vô cùng hấp dẫn. Chính vì thế mà từ thời xa xưa chúa Trịnh Sâm đã khắc trên tấm bia đá bốn chữ "Sơn Thủy Hữu Tình".

Sau đây tôi xin mô tả những cảnh đẹp của dòng suối Yến: Suối Yến có những nét đặc thù riêng ở một địa danh vô cùng hấp dẫn nó không đẹp ở sự mênh mông, mà đẹp ở sự buông thả hiền hòa giữa hai triền núi, đường suối không xa lắm nhưng trông như không có chỗ tận cùng, quanh co lượn qua lượn lại chạy theo các dẫy núi hai bên bờ suối còn có những ruộng lúa nước bao la, ban ngày, ban đêm lúc nào cũng đẹp như mơ, cho nên còn có tên là Suối Mơ, những chiếc thuyền thoi của các cô gái làng Yến, vừa xinh đẹp vừa khoẻ mạnh ngày thường chở lúa, chở gạch, chở củi, chở cá… đến mùa Xuân lại chở khách thập phượng đến vãng cảnh chùa.

Trong cái trạng thái vui say ấy, các du khách thường gặp nhau trong những ánh mắt lời thơ với những tiếng cười dòn như pháo trên các con thuyền du Xuân dọc theo Suối Yến, Ta đồng hành với những vạt lúa xanh viền hai mép suối, trên dòng nước xanh trong veo, những đám rong mềm mại lay động dưới lòng suối, với những con le, con cốc thỉnh thoảng bay vù từ mặt nước…

Bây giờ tôi cùng quí độc giả ta hãy nhìn lên trên hai dãy núi, phía bên trái, kìa núi Đụn, cao cao và nây tròn như một hột thóc. Núi Đụn còn là đuôi của một con rồng, dãy núi Hàm Rồng, gần núi Đụn là núi Soi, giống như con Kỳ Lân, còn gọi là núi Lân, gần núi Soi là núi Ái, là núi Phượng đang rộng cánh. Chỗ đầu và mỏ Phượng là động - chùa Thanh Sơn, hai cánh nó là hai chỏm núi, quá chút nữa là đến núi Đổi Chèo. Ghe (đò) ra, ghe vào đến quãng này nhất thiết các cô gái phải đổi tay chèo cho nhau, đỡ mỏi. Núi đổi chèo giống như một con trăn lớn đang bò trên mặt nước. Gần núi Đổi Chèo là núi Bưng. Gần núi Bưng là núi Voi. Núi Voi còn có một câu chuyện kể rằng:

Hương Sơn có một trăm ngọn núi thì 99 ngọn nghiêng đầu về phía động Hương Tích để tỏ lòng ngưỡng mộ. Đúng như câu thơ: "Núi xô về cửa động." Chỉ riêng một tên Voi bướng bỉnh, vô lễ quay đầu ra, quay mông vào. Ông Hộ Pháp giận quá lấy gươm phạt một mảng mông của tên voi. Bây giờ tên Voi vẫn mất một mảng mông.

LỊCH SỬ CHÙA HƯƠNG:

Tôi mời quý độc giả hãy cùng tôi tìm hiểu sơ qua về lịch sử của Hương Sơn, để có một khái niệm tổng quát về địa danh, thắng cảnh tuyệt đẹp mà nay đã được gắn liền với 5 chữ "Nam Thiên Đệ Nhất Động". Non sông đất nước Việt Nam có biết bao nhiêu danh lam thắng cảnh do thiên nhiên tạo thành và cũng không ít những thắng cảnh do nhân tạo. Tuy nhiên, Chúa Trịnh Sâm là người đã nổi tiếng hay chữ và sành sỏi các thú du ngoạn xưa kia đã không phẩm bình Hương Sơn là một chốn "Sơn thuỷ hữu tình" (chữ đề bên suối Yến). Hay "Kỳ sơn tú thủy" (chữ đề bên suối Tuyết) mà còn phong cho Hương Sơn là "Nam Thiên Đệ Nhất Động". Hàm "đệ nhất" mà Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm dành cho Hương Tích vừa là sự so sánh, vừa là một sự khẳng định một chốn cảnh đẹp tuyệt vời mà không đâu sánh nổi trên đất nước ta. 

Đã trải qua hàng chục thế kỷ trước đây cho đến ngày nay, các nhà khảo cổ vẫn chưa tìm hiểu nhiều về vùng đất Hương Sơn, nhưng những cảnh quan sinh thái và di tích đã phát hiện trên đất Hà Tây được biết, trên đất Hương Sơn xưa kia đã sớm có dấu tích của con người. Nhưng nhận biết ra Hương Sơn như một cảnh quan thẩm mỹ và tâm linh, người ta nói nhiều đến truyền thuyết về một bộ tướng của Vua Hùng đời thứ 16 (Hiển Quan) đến xây Hương Tích, Bếp Trời (thiên Trù). Hay truyền thuyết bên bờ Suối Yến về một chàng trai tên Hùng Lang cùng thời với Ông Gióng cũng tham gia đánh giặc Ân, có công diệt được tướng giặc Thạch Linh, khi chết được phong làm phúc thần làng Yến Vĩ.

blank

Nhưng cứ theo sách "Hương Sơn Ký" của Nguyễn Uông người làng Thanh Oai (Hà Tây) làm đốc học Nam Định thì đến (Khoảng đời Hồng Đức (1470-1496) con đường vào Hương Sơn mới được mở… Nhờ đó mà phong cảnh kỳ thú của núi rừng mới lộ ra, rồi trở thành một kỳ quan lớn trong vũ trụ. Chính sức hấp dẫn của cảnh quan thiên nhiên Hương Sơn đã bồi đắp cho danh thắng này một giá trị lịch sử và đã trở thành nơi hội tụ của những danh nhân lịch sử về văn hoá dân tộc của những bậc đế vương còn lưu lại nơi các bia đá với những nét chữ để đời và những bài thơ Nôm hay Hán của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm vào năm Canh Dần (1770) người ta đã biết đến dấu tích của các bà Chúa, vợ của Trịnh Căn đã góp công, của để xây dựng các Chùa.

Các tao nhân mặc khách đến với Hương Sơn thường có những bài thơ còn để lưu truyền lại cho các thế hệ kế tục am hiểu được những cảnh quan tuyệt vời của Hương Sơn như: Chu Mạnh Trinh, Ngô Thi Sĩ, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Cao, Cao Bá Quát, Bùi Di, Bùi Kỷ… rồi đến thế hệ Tản Đà, Xuân Diệu, Chế Lan Viên... Không kể đến những huyền tích về thời các Vua Hùng mà những chiếc trống đồng còn lưu lại nơi đây, trong đó có chiếc trống đồng tìm được ở Thượng Lâm (Mỹ Đức năm 1934) mang truyền thuyết là món quà của Đinh Tiên Hoàng tăïng cho dân làng cùng với dấu tích của con đường mang tên Vua Đinh.

blankCả một vùng thiên nhiên hùng vĩ và tuyệt đẹp của Hương Sơn kể từ khi được vua Lê Thánh Tông, vị vua sáng chói của Triều Lê phát hiện, đến nay đã trải qua đúng nửa thiên niên kỷ. Thời gian ấy, bên cạnh những huyền thoại, những truyền thuyết trải qua của một thời lịch sử xa xưa, cũng đã đủ để tạo dựng lên một bề dầy truyền thống với những giá trị lịch sử. Không những giữ gìn cảnh quan thiên nhiên, đó là món quà của đất Mẹ trao cho hiện hữu, mà còn cả những di sản tinh thần đã được hun đúc từ khí thiêng sông núi, khí phách của các bậc tiền bối để lại cho cảnh quan Hương Sơn có cả bề rộng của không gian và bề dầy của lịch sử.

Đến chùa Hương tất cả các du khách từ bốn phương đổ về gặp nhau trong một trái tim. Cảnh sơn núi hữu tình, nên thơ. Trai gái trẻ già dập dìu dắt nhau lên chùa lễ Phật thật là "Bầu Trời Cảnh Bụt" bao la với những đoàn thiện nam, tín nữ từ khắp nơi đổ về hành hương chiêm bái, như thơ Tản Đà đã diễn tả:

Chùa Hương trời điểm lại trời tô
Một bức tranh tình trải mấy thu

Xuân lại, Xuân đi bao dấu vết

Ai về, ai nhớ vẫn thơm tho.

Phong cảnh chùa Hương thật hữu tình, thơ mộng nhớ đến Bến Đục, Suối Yến, với giòng nước chảy nhẹ nhàng trên sông, in bóng những dãy núi chập chờn tô điểm cảnh thiên nhiên.

Theo tôi, những người Việt Nam cần phải tìm hiểu về các danh lam thắng cảnhquê nhà để mở rộng kiến thức và tầm hiểu biết về quê hương của mình, nhất là "Nam Thiên Đệ Nhất Động". Đời người ít nhất cũng phải du xuân chùa Hương một lần để chiêm ngưỡng phong cảnh tuyệt đẹp của Hương Sơn mà Chu Mạnh Trinh đã diễn tả với những giòng thơ như:

Kìa non non, nước nước mây mây
"Đệ nhất động" hỏi là đây có phải?

Thỏ thẻ rừng mai chim cùng trái

Lững lờ khe Yến cá nghe kinh

Thoảng bên tai một tiếng chày kình(1)

Khách tang hải giật mình trong giấc mộng!

Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng

Này am Phật Tích, này động Tuyết Kinh

Nhác trông lên ai khéo vẽ hình.

Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt

Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt

Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây

Chừng giang sơn còn đợi ai đây

Hay tạo hoá khéo ra tay xếp đặt

Lần hạt tràng niệm: Nam mô Phật

Cửa từ bi công đức biết là bao

Càng trông phong cảnh càng yêu.

(1) Chày kình: Cái chày đánh chuông, làm theo hình con cá kình.

Hay là chơi động Hương Tích của Trịnh Sâm đã diễn tả như sau:

Trời vừa hé sáng, bước lên thuyền
Khoan mái chèo lan, ghé bến tiên

Phong nguyệt thờ ơ bầu ngọc đúc

Giang Sơn bỡ ngỡ, bức tranh in

Kìa kìa qui phượng ngong kinh bối (1)

Nọ lân lòng lắng gió thiền (2)

Cảnh lạ thú màu khôn xiết kể

Thanh kỳ đệ nhất chốn Nam thiên.

(Tâm thanh tồn duy thi tập)
 

(1)Kinh bối: Kinh Phật viết trên lá bối
(2)Thiền: Nhà chùa, giáo thiền tức là giáo lý của nhà chùa.

Sau đây tôi xin mời quí độc giả hãy cùng tôi đi tìm hiểu một số di tích, lịch sử và những đặc tính tiêu biểu của Phật Giáo tại Hương Sơn để cùng nhau suy ngẫm về cảnh tích tuyệt vời, có một không hai của quê nhà:

- Phật Giáo đã đến với Hương Sơn từ bao giờ?

Nơi đây đạo Phật được truyền vào ngay từ khi phát hiện ra hang động Hương Sơn. Theo một số tài liệu chúng tôi khảo cứu thì vào đời Lê Thánh Tông thế kỷ thứ XV, có 3 vị Hòa Thượng chống tích Trượng tới đây tu hành, hàng ngày vào động Hương Tích lễ tụng, toạ thiền, tối lại ra khu vực Thiên Trù ngủ nghỉ. Hồi đó, Thiên Trù là một thung lũng hoang vu, 3 vị Hòa Thượng lần lượt dựng lên một thảo am để trú ngụ tránh mưa nắng, sau một thời gian 3 vị Hòa Thượng viên tịch thì nơi đây gián đoạn trụ trì. Tên tuổi các ngài cũng không ai nhớ rõ. Di tích của các ngài để lại đến nay chỉ còn lại là 2 ngôi mộ cổ bằng đá xanh, được đục đẽo thô sơ trong vườn tháp Thiên Trù. Ngày khoa cúng cổ ở Hương Sơn cũng chỉ gọi là "Kị Tổ Bồ Tát" và các ngài thuộc dòng phái nào cho đến nay vẫn chưa ai biết rõ.

Đến năm 1687 - niên hiệu Chính Hoà mới có Hòa Thượng Trần Đạo Viên Quang ở Ty Tăng Lục (thời Lê lập ra Ty Tăng Lục để coi sócquản lý các vị tu hành) chống thiền trượng tới đây mới lập cảnh Phật ở Hương Sơn, tiếp theo là các vị Hòa Thượng Viên Quang, trụ trì khoảng 20 năm, Đaị Sư Thông Lâm thuộc giòng Thiền Lâm Tế, Hòa Thượng Thanh Quyết, HT Thanh Hữu… HT Thanh Quyết là một vị danh tăng đương thời, học thức uyên bác, phẩm hạnh thanh cao. Các nho sĩ bấy giờ đã tôn là "Tăng Trung Hào Kiệt".

Tiếp theo là các vị HT Thích Thanh Tích, Đại Sư Thanh Tích tu tập Đại bi Chân Ngôn và trì tụng Đại bi Bát Nhã, hoàng truyền Phật Pháp đồng thời đã đào tạo hàng trăm đệ tử danh tăng như các HT Tố Liên, Thanh Chân, Thanh Uẩn, Thanh Khánh, Thanh Nga, Thanh Châu…

Lịch sử đất nước cũng có lúc thăng trầm, nhưng không thể bị huỷ diệt, con người cũng có lúc lên lúc xuống, đường đời thật là chông gai, nhưng rồi cũng vượt qua.

Phật Giáo cũng vậy, đã trải qua 2000 năm trên đất nước VN là một chứng tích, đất nước thăng trầm thì Phật Giáo cũng nổi trôi theo sự tiến hóa của một dân tộc. Do đó, văn hóa Phật Giáo đã gán liền với văn hóa dân tộc Việt Nam vậy.

blankKhi các Thiền Sư chống tích trượng, dựng thảo amHương Sơnxây dựng nơi qui ngưỡng các du khách thập phương vân tập về chiêm bái ngôi Tam Bảo, tô bồi nơi danh lam của đất nước cho thế nhân du ngoạn. Có như vậy là đã làm tròn trọng trách giữa Đạo Phật và Dân Tộc. Giáo lý Phật Giáo đã tùy duyên bất biến ăn sâu vào lòng dân Việt từ thế hệ này đến thế hệ khác. Nền văn hóa Phật GiáoHương Sơn đã được bản địa hóa nhận thức của con người đương thời. Đức Quan Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvaha Boddhisattva) đã thành Phật Bà Chùa Hương, hình ảnh một người mẹ với tình thương bao la trong lòng người dân Việt.

Mỗi độ Xuân về thì lòng người lại thao thức rủ nhau đi "Trẩy Hội Chùa Hương" các du khách khi đến đây mới thấy "Bầu trời cảnh Bụt". Sau đây tôi xin mượn 4 câu thơ của Tản Đà để kết thúc bài Ký Sự này:

Chùa Hương trời điểm lại trời tô
Một bức tranh tình trải mấy thu
Xuân lại, Xuân đi bao dấu vết
Ai về, ai nhớ vẫn thơm tho.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5474)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10541)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6106)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9374)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6430)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5986)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7512)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7329)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5221)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8114)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5936)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9653)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7426)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7455)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6244)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5326)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5876)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5681)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3976)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5723)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4100)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7539)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5733)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21955)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5661)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7110)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5043)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6455)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5831)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5022)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7070)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6061)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5586)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5901)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6028)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6855)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6448)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6094)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6506)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6202)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6395)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5620)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6919)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4572)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7802)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6054)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7311)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7743)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5511)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5161)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5691)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5546)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5535)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5030)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4292)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6060)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5641)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6302)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8540)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant