Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật trong nhà, Phật ngoài vườn

24 Tháng Chín 201000:00(Xem: 16865)
Phật trong nhà, Phật ngoài vườn

Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí, hay trần tục hóa: như món đồ trang sức của những kẻ mến mộ. Thế nên, tượng Phật không chỉ ngự ở bàn thờ, không chỉ ngự ở trong nhà, mà còn ngự ở ngoài vườn, công viên!

1. Kinh Tăng nhất A hàm kể rằng, ngày nọ, Đức Thế Tôn nhận thấy tứ chúng có phần giải đãi; khiến cho họ khát ngưỡng Chánh pháp, Ngài đã lặng lẽ rời khỏi Kỳ Hoàn, đến thuyết pháp tại cõi trời Tam thập tam (Đao Lợi). Trong số hội chúng chư thiên nghe phápThích Đề Hoàn NhơnMa Gia hoàng hậu.

phattrongnhangoaivuon-1-content

Ảnh minh họa

Bốn bộ chúngnhân gian lâu không thấy Phật, bèn đến hỏi Tôn giả A Nan, nhưng Tôn giả cũng không rõ biết. Vua Ba Tư NặcƯu Điền không gặp được Như Lai cùng sinh sầu khổ. Quần thần hỏi vua Ưu Điền lo sầu việc gì mà sinh bệnh? Vua đáp: “Do chẳng thấy Như Lai, nếu không thấy Như Lai, ta sẽ chết mất!”. Quần thần do đó nghĩ rằng nên tạo hình tượng Phật, để cho vua “cung kính, thừa sự, lễ bái”, như thấy Phật ở bên cạnh, không lo sầu đến nỗi mạng chung.

Tượng Như Lai được tạc nên từ gỗ ngưu đầu chiên đàn, cao năm thước, khiến vua Ưu Điền rất mực hoan hỷ mà hết bệnh. Vua Ba Tư Nặc nghe vậy cũng cho người dùng vàng tử ma đúc nên hình tượng Như Lai, cao bằng với tượng Phật của vua Ưu Điền.

Đó chính là hai pho tượng Phật đầu tiên ở cõi Diêm Phù Đề(1).

2. Ngay từ buổi đầu, tượng Phật được tạo nên là để cho vua, rộng ra là cho tứ chúng, “cung kính, thừa sự, lễ bái”, như kinh Tăng nhất A hàm đã nói. Điều này khởi đầu cho việc thờ Phật - lễ Phật như ngày nay, tức thờ và lễ hình tượng Phật.

Trong truyền thống văn hóa Ấn Độ, năm vóc sát đất (lạy) là lối chào cung kính nhất. Chúng đệ tử chào Đức Thế Tôn theo cách này, “cúi xuống ôm chân Phật và đặt trán mình lên chân Ngài để tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn thờ một bậc tối thượng”. “Sau khi Phật nhập diệt, toàn thể tín đồ vẫn xem như Ngài còn tại thế, và cái cử chỉ cúi xuống ôm chân Phật vẫn còn tiếp nối tồn tại cho đến ngày nay và muôn ngàn năm sau. Cái cử chỉ ấy có công dụng làm cho tín đồ bao giờ cũng hình dung như Đức Phật còn ngồi trước mặt mình để chứng giám cho tấm lòng thành kính thiết tha của mình”(2).

Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy rằng, cử chỉ ấy về sau không đơn thuần là lối chào nữa mà bao hàm nhiều ý nghĩa, trong đó có cả sự quy ngưỡng, sám hốicầu nguyện. Văn Lương Hoàng sám có đoạn: “Kính lạy vô lượng hình tượng Phật khắp cả mười phương, cùng tận không giới, tượng vàng và tượng đàn hương của vua Ưu Điền tạo ra, tượng đồng của vua A Dục tạo ra, tượng đá ở Trung Hoa, tượng ngọc ở Tích Lan, và hết thảy các tượng khắp trong các quốc độ làm bằng vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não…”. “Nguyện xin Tam bảo đem nước đại bi mà rửa sạch tội lỗi nhơ bẩn cho hết thảy chúng sanh hiện chịu khổ trong địa ngục A Tì và tất cả các địa ngục khác, làm cho họ thân tâm thanh tịnh…”(3).

Lễ hình tượng Phật rõ ràng cũng là một pháp tu, vì thế đã có những bộ kinh chỉ thuần về danh hiệu Phật, Bồ tát, nổi tiếng như kinh Vạn Phật, Tam thiên Phật, Ngũ bách danh Quán Thế Âm,…; và những sám văn lễ Phật sám hối như: Lương Hoàng sám pháp, Từ bi đạo tràng sám pháp, v.v…

Thờ Phật song hành với việc lễ lạy, cho nên bàn Phật thường được quan tâm thiết trí tại nơi tôn nghiêm nhất của gia đình. “Bàn thờ Phật phải đặt chính giữa nhà (…). Nếu nhà lầu thì thờ Phật ở tầng trên”(4). Quan niệm thờ Phật như thế mặc dù đúng pháp, nhưng ít nhiều đã tạo nên sự xa cách giữa hình ảnh Đức Phật từ bi với đời sống chật vật, âu lo và đầy đau khổ của con người. Trong sâu thẳm tâm hồn, con người cần một Đức Phật gần gũi hơn!

phattrongnhangoaivuon-2-content

Ảnh minh họa

3. Pho tượng Phật đầu tiên rõ ràng được tạo nên từ chính cái “tình” của vua Ưu Điền đối với Phật. Hơn cả nỗi tương tư của trai giái thường tình, vua nhớ Phật đến sinh bệnh và có nguy cơ mạng chung. Pho tượng gỗ tạc kim dung Đức Phật đã cứu lấy sinh mạng vua. Với vua, tượng gỗ cũng chính là sắc thân Phật. Và ở bên tượng, vua cảm thấy như đang ở bên Phật, gần gũi với Phật, thỏa được lòng nhớ mong, khát ngưỡng.

Như vậy, luôn được gần Phật hay gần tôn tượng Ngài là niềm hạnh phúc to lớn không chỉ với vua Ưu Điền, mà còn với tất cả chúng ta. Bên Phật như bên cha lành, như bên mẹ hiền, bên suối nguồn thơm mát của từ bi, trí tuệ.

Từ ý thức đó, nhiều người muốn được hàng ngày chiêm ngưỡng Phật nên không đặt tượng Ngài trên bàn thờ, mà đặt ở những nơi mà họ sống nhiều nhất. Một cách rất ngẫu nhiên, trong nhiều ngôi nhà hiện đại, tượng Phật có thể xuất hiện ở bàn làm việc, ở kệ sách, trên chiếc đôn nhỏ, hay trang trọng hơn là ngay lối vào ra. Khi đi đứng, lúc nằm ngồi, những người trong gia đình đều có thể nhìn thấy Phật.

Từ chốn thờ tôn nghiêm, Đức Phật đã bước vào cuộc sống bề bộn, âu lo của con người trần tục. Một Đức Phật để thờ kính, lễ lạy nay đã trở thành một Đức Phật để gần gũi, chan hòa và để sống với… Rất có thể chủ nhà chỉ đơn thuần xem tượng Phật như là một kiểu tượng trang trí, nhưng không thể phủ nhận rằng họ cũng ít nhiều cảm mến được nét đẹp từ bi toát lên từ dung tượng Ngài.

Kiểu “thế tục hóa” tôn tượng Phật như thế cũng là điều tự nhiên. Song vấn đề lại gây tranh cãi khi có người quá yêu kính Đức Phật, đến độ để Ngài sống “quá gần gũi” với mình như câu chuyện sau đây:

Một Phật tử nọ cho một người phương Tây thuê nhà. Một hôm, chủ nhà phát hiện trong phòng vệ sinh của chàng Tây trẻ có một pho tượng Phật. Chủ nhà lấy làm giận dữ vì cái lẽ bất kính ấy đối với vị giáo chủ thiêng liêng của mình. Nhưng chàng Tây trẻ khăng khăng rằng, xét về niềm tôn kính, nếu so với chủ nhà, thì anh ta tôn kính Đức Phật không kém. Bởi lẽ, phòng vệ sinh là nơi anh sống nhiều nhất. Sau một ngày làm việc căng thẳng, anh trở về nhà và ngâm mình vào bồn tắm; trong những phút thư giãn hiếm hoi đó, anh có thể chiêm ngưỡng Đức Phật một cách trọn vẹn, không vướng bận những toan lo của công việc hàng ngày!

4. Sau khi Đức Phật nhập diệt ngót nửa thiên niên kỷ, không thấy ai vì nhớ thương Phật mà tạo hình tượng Ngài. Quan niệm bấy giờ cho rằng không ai có thể tạo nên một pho tượng Phật bao gồm được sắc tướng trang nghiêm với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Chúng đệ tử tôn kính và tưởng nhớ đến Ngài qua những biểu tượng thiêng như: dấu chân, chiếc ngai, cội bồ đề hay bánh xe chuyển pháp luân… Và có lẽ, phải chăng, chúng đệ tử bấy giờ cũng không muốn hình ảnh Đức Phật bị “trần tục hóa” kiểu như “cùng sống với” những người thế tục như trên đã nói?!

Song đến đầu Công nguyên, dưới triều đại Kushan, nhu cầu có một thánh tượng Đức Phật để tôn thờ trở nên tha thiết hơn bao giờ hết. Đó là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của Phật giáo Đại thừa. Nhiều trung tâm nghệ thuật xuất hiện, tiêu biểu nhất là Gandhara và Mathura, đã chế tác nên rất nhiều hình tượng Phật với nhiều kích cỡ và tư thế khác nhau. Đức Phật bấy giờ không chỉ ngự trong điện, trong hang động, mà còn xuất hiện ở những chốn đông người lại qua. Từ biểu tượng thiêng đến dáng vẻ con người, hình ảnh Đức Phật đã trở nên hết sức sống động, gần gũi.

Hai mươi thế kỷ trước đã thế, nên không lạ gì khi trong thời đại ngày nay, chúng ta lại chứng kiến niềm khát ngưỡng muốn kéo Đức Phật đến gần hơn nữa với cuộc sống trần tục của con người. Đức Phật đã ung dung bước ra khỏi gian thờ tự trang nghiêm để xuống vườn, đến cả chốn công viên.

phattrongnhangoaivuon-3-content

Ảnh minh họa

Ấn Độ có rất nhiều công viên Đức Phật, như: Budhha Park ở Kanpur, thuộc bang Uttar Pradesh, một trong những thành phố đẹp nhất của Ấn Độ, tọa lạc bên dòng sông Hằng linh thiêng; đây là nơi vui chơi của trẻ em nhiều thế hệ. Trong khi đó, Gautam Buddha Park ở Lucknow từ lâu đã là điểm đến thú vị cho những cuộc pinic, ngày nay phần nhiều được sử dụng cho những cuộc hội nghị mang tính chính trị. Một dự án khác, công viên Đức Phật ở Patna, dự kiến sẽ hoàn thành vào giữa năm nay, nằm cạnh đại lộ Fraser, nơi sẽ tôn thờ một phần xá lợi của Phật. Đặc biệt, tại phía Nam thủ đô New Delhi có công viên Buddha Jayanti, được xây dựng nhân kỷ niệm lần thứ 2.500 ngày Đức Phật nhập Niết bàn. Nơi đây hàng năm diễn ra pháp hội đông đến hàng ngàn người. Ngày thường, trong công viên này, Đức Phật vẫn ngồi lặng lẽ hiền từ khi chung quanh Ngài có vô số cặp tình nhân đang ôm nhau thắm thiết. (Ở Ấn Độ, hiếm có cảnh trai gái thân mật với nhau giữa chốn đông người). Quả thật:

“Trăng lên

Dưới bóng Đức Phật

Đôi tình nhân hôn”.

(Thơ Nguyễn Thiên Thuận)

Thái Lan nổi tiếng có công viên Buddhamonthon - tỉnh Nakhon Pathom, phía Tây Bangkok, với tượng Phật đứng cao đến 15,8m. Ở Lào có công viên Đức Phật Xieng Khuan, nằm phía Nam thủ đô Vientiane, soi bóng xuống dòng Mekong. Công viên này được gọi là “thành phố tâm linh”, với hơn 200 pho tượng Phật giáo và Hindu giáo, đặc biệt là pho tượng Phật nằm dài đến 40m… Việt Nam có công viên Quách Thị Trang, nay mai còn có công viên Thích Quảng Đức,… nhưng vẫn chưa có công viên Đức Phật!

5. Không còn bất ngờ khi ở đâu đó, ta bắt gặp tôn tượng Đức Phật đang ngồi dưới một gốc cây, trên một bãi cỏ, hay bên một dòng suối. Dù ngồi ở đâu, gương mặt Ngài vẫn an nhiên và nụ cười hiền từ có sức lay động mạnh mẽ. Những đứa trẻ có thể chạy đến chơi với Ngài; người làm vườn cũng có thể đến nghỉ mát, ngồi uống nước bên Ngài. Ngài đã đản sinh dưới gốc cây, thành đạo dưới gốc câynhập diệt cũng dưới gốc cây. Thiên nhiên gần gũi với ngài, cũng giống như ngài đã gần gũi với con người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn…

Hình ảnh Đức Phật giờ đây đã trở nên gần gũi, quen thuộc với con người, phương Đông cũng như phương Tây. Tại chốn phồn hoa đô hội hay nơi thôn quê hẻo lánh, chúng ta đều có thể bất ngờ gặp Phật. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân ngỡ ngàng khi chiêm ngưỡng hình ảnh tôn nghiêm của Đức Phật tại chốn đệ nhất ăn chơi Las Vegas - Hoa Kỳ. Nhà văn Văn Cầm Hải xúc động khi trông thấy Ngài tại ngôi làng cổ Marken - Hà Lan, ngôi làng có lịch sử ngàn năm Thiên Chúa. “Làng Marken nằm ngoài bán đảo ở vùng biển Amsterdam. Như có ai xui khiến, trong khi dạo chơi ngắm cảnh quan, bất chợt bước chân tôi khấp lại trước khe tường hẹp giữa hai ngôi nhà: huyền bí trong kia khu vườn nhỏ, phía sau thân cây bạch dương trụi lá, Đức Phật uy nghi hiện ra. Khuôn mặt Ngài cô nghị trên bụi hoa dại màu nhung tía như máu của đất dịu dàng phun lên. Ai đã mang tượng Phật đến ngôi làng cổ từ ngàn năm nay chỉ có biết Chúa Jesus? (…) Tôi bất thần nhận ra mình chỉ là một hạt phân tử chuyển động, hòa tan và mất hút vào vẻ đẹp vô ngôn của bức tượng Phật. Khuôn mặt từ bi, đôi tay như nhã xuôi theo cánh đùi mà tôi phải nhón chân qua hàng rào mới nhìn thấy, Đức Phật hiển thị giữa gió ngàn khơi hoang vu”, anh kể (5).

Tại tòa cao điện lớn, tại chốn thờ tôn nghiêm, trên một giá sách hay trong một góc vườn, một công viên rộng lớn, trong cảnh rừng núi thâm u hay giữa chốn phồn hoa đô hội, Đức Phật điềm nhiên tĩnh tọa, nào có khác gì. Khác chăng đó là tấm lòng của chúng ta đối với Ngài như thế nào mà thôi!

Đỗ Thiền Đăng

(1) HT. Thích Thanh Từ dịch, kinh Tăng nhất A hàm, Viện Nghiên cứ Phật học Việt Nam, 1998, tr.403-422. (2) Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông, Thành hội Phật giáo TP.HCM, 1997, quyển I, tr.126. (3) Trí Quang dịch, Lương Hoàng sám, NXB Tôn giáo, 2006, tr.385&389. (4) Phật học phổ thông, tr.125. (5) Văn Cầm Hải, “Bóng Phật bên biển La Haye”, Trên dấu chân di thê, NXB Trẻ, 2003, tr.37-38.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6104)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9979)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7081)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7326)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6978)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9338)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5830)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7097)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6513)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6090)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7159)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14369)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20417)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9458)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7855)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8179)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7441)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9367)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7437)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7474)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7647)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9464)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8762)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7362)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7955)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7002)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7657)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9849)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8280)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8827)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7664)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8822)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8625)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 7997)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 8997)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9421)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8717)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8877)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7218)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9167)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8593)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7885)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9604)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10158)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8747)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8350)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7618)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9314)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7467)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15343)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7292)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8470)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12223)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7295)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11484)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8306)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8029)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7897)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8914)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7405)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant