Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật trong nhà, Phật ngoài vườn

24 Tháng Chín 201000:00(Xem: 16809)
Phật trong nhà, Phật ngoài vườn

Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí, hay trần tục hóa: như món đồ trang sức của những kẻ mến mộ. Thế nên, tượng Phật không chỉ ngự ở bàn thờ, không chỉ ngự ở trong nhà, mà còn ngự ở ngoài vườn, công viên!

1. Kinh Tăng nhất A hàm kể rằng, ngày nọ, Đức Thế Tôn nhận thấy tứ chúng có phần giải đãi; khiến cho họ khát ngưỡng Chánh pháp, Ngài đã lặng lẽ rời khỏi Kỳ Hoàn, đến thuyết pháp tại cõi trời Tam thập tam (Đao Lợi). Trong số hội chúng chư thiên nghe phápThích Đề Hoàn NhơnMa Gia hoàng hậu.

phattrongnhangoaivuon-1-content

Ảnh minh họa

Bốn bộ chúngnhân gian lâu không thấy Phật, bèn đến hỏi Tôn giả A Nan, nhưng Tôn giả cũng không rõ biết. Vua Ba Tư NặcƯu Điền không gặp được Như Lai cùng sinh sầu khổ. Quần thần hỏi vua Ưu Điền lo sầu việc gì mà sinh bệnh? Vua đáp: “Do chẳng thấy Như Lai, nếu không thấy Như Lai, ta sẽ chết mất!”. Quần thần do đó nghĩ rằng nên tạo hình tượng Phật, để cho vua “cung kính, thừa sự, lễ bái”, như thấy Phật ở bên cạnh, không lo sầu đến nỗi mạng chung.

Tượng Như Lai được tạc nên từ gỗ ngưu đầu chiên đàn, cao năm thước, khiến vua Ưu Điền rất mực hoan hỷ mà hết bệnh. Vua Ba Tư Nặc nghe vậy cũng cho người dùng vàng tử ma đúc nên hình tượng Như Lai, cao bằng với tượng Phật của vua Ưu Điền.

Đó chính là hai pho tượng Phật đầu tiên ở cõi Diêm Phù Đề(1).

2. Ngay từ buổi đầu, tượng Phật được tạo nên là để cho vua, rộng ra là cho tứ chúng, “cung kính, thừa sự, lễ bái”, như kinh Tăng nhất A hàm đã nói. Điều này khởi đầu cho việc thờ Phật - lễ Phật như ngày nay, tức thờ và lễ hình tượng Phật.

Trong truyền thống văn hóa Ấn Độ, năm vóc sát đất (lạy) là lối chào cung kính nhất. Chúng đệ tử chào Đức Thế Tôn theo cách này, “cúi xuống ôm chân Phật và đặt trán mình lên chân Ngài để tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn thờ một bậc tối thượng”. “Sau khi Phật nhập diệt, toàn thể tín đồ vẫn xem như Ngài còn tại thế, và cái cử chỉ cúi xuống ôm chân Phật vẫn còn tiếp nối tồn tại cho đến ngày nay và muôn ngàn năm sau. Cái cử chỉ ấy có công dụng làm cho tín đồ bao giờ cũng hình dung như Đức Phật còn ngồi trước mặt mình để chứng giám cho tấm lòng thành kính thiết tha của mình”(2).

Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy rằng, cử chỉ ấy về sau không đơn thuần là lối chào nữa mà bao hàm nhiều ý nghĩa, trong đó có cả sự quy ngưỡng, sám hốicầu nguyện. Văn Lương Hoàng sám có đoạn: “Kính lạy vô lượng hình tượng Phật khắp cả mười phương, cùng tận không giới, tượng vàng và tượng đàn hương của vua Ưu Điền tạo ra, tượng đồng của vua A Dục tạo ra, tượng đá ở Trung Hoa, tượng ngọc ở Tích Lan, và hết thảy các tượng khắp trong các quốc độ làm bằng vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não…”. “Nguyện xin Tam bảo đem nước đại bi mà rửa sạch tội lỗi nhơ bẩn cho hết thảy chúng sanh hiện chịu khổ trong địa ngục A Tì và tất cả các địa ngục khác, làm cho họ thân tâm thanh tịnh…”(3).

Lễ hình tượng Phật rõ ràng cũng là một pháp tu, vì thế đã có những bộ kinh chỉ thuần về danh hiệu Phật, Bồ tát, nổi tiếng như kinh Vạn Phật, Tam thiên Phật, Ngũ bách danh Quán Thế Âm,…; và những sám văn lễ Phật sám hối như: Lương Hoàng sám pháp, Từ bi đạo tràng sám pháp, v.v…

Thờ Phật song hành với việc lễ lạy, cho nên bàn Phật thường được quan tâm thiết trí tại nơi tôn nghiêm nhất của gia đình. “Bàn thờ Phật phải đặt chính giữa nhà (…). Nếu nhà lầu thì thờ Phật ở tầng trên”(4). Quan niệm thờ Phật như thế mặc dù đúng pháp, nhưng ít nhiều đã tạo nên sự xa cách giữa hình ảnh Đức Phật từ bi với đời sống chật vật, âu lo và đầy đau khổ của con người. Trong sâu thẳm tâm hồn, con người cần một Đức Phật gần gũi hơn!

phattrongnhangoaivuon-2-content

Ảnh minh họa

3. Pho tượng Phật đầu tiên rõ ràng được tạo nên từ chính cái “tình” của vua Ưu Điền đối với Phật. Hơn cả nỗi tương tư của trai giái thường tình, vua nhớ Phật đến sinh bệnh và có nguy cơ mạng chung. Pho tượng gỗ tạc kim dung Đức Phật đã cứu lấy sinh mạng vua. Với vua, tượng gỗ cũng chính là sắc thân Phật. Và ở bên tượng, vua cảm thấy như đang ở bên Phật, gần gũi với Phật, thỏa được lòng nhớ mong, khát ngưỡng.

Như vậy, luôn được gần Phật hay gần tôn tượng Ngài là niềm hạnh phúc to lớn không chỉ với vua Ưu Điền, mà còn với tất cả chúng ta. Bên Phật như bên cha lành, như bên mẹ hiền, bên suối nguồn thơm mát của từ bi, trí tuệ.

Từ ý thức đó, nhiều người muốn được hàng ngày chiêm ngưỡng Phật nên không đặt tượng Ngài trên bàn thờ, mà đặt ở những nơi mà họ sống nhiều nhất. Một cách rất ngẫu nhiên, trong nhiều ngôi nhà hiện đại, tượng Phật có thể xuất hiện ở bàn làm việc, ở kệ sách, trên chiếc đôn nhỏ, hay trang trọng hơn là ngay lối vào ra. Khi đi đứng, lúc nằm ngồi, những người trong gia đình đều có thể nhìn thấy Phật.

Từ chốn thờ tôn nghiêm, Đức Phật đã bước vào cuộc sống bề bộn, âu lo của con người trần tục. Một Đức Phật để thờ kính, lễ lạy nay đã trở thành một Đức Phật để gần gũi, chan hòa và để sống với… Rất có thể chủ nhà chỉ đơn thuần xem tượng Phật như là một kiểu tượng trang trí, nhưng không thể phủ nhận rằng họ cũng ít nhiều cảm mến được nét đẹp từ bi toát lên từ dung tượng Ngài.

Kiểu “thế tục hóa” tôn tượng Phật như thế cũng là điều tự nhiên. Song vấn đề lại gây tranh cãi khi có người quá yêu kính Đức Phật, đến độ để Ngài sống “quá gần gũi” với mình như câu chuyện sau đây:

Một Phật tử nọ cho một người phương Tây thuê nhà. Một hôm, chủ nhà phát hiện trong phòng vệ sinh của chàng Tây trẻ có một pho tượng Phật. Chủ nhà lấy làm giận dữ vì cái lẽ bất kính ấy đối với vị giáo chủ thiêng liêng của mình. Nhưng chàng Tây trẻ khăng khăng rằng, xét về niềm tôn kính, nếu so với chủ nhà, thì anh ta tôn kính Đức Phật không kém. Bởi lẽ, phòng vệ sinh là nơi anh sống nhiều nhất. Sau một ngày làm việc căng thẳng, anh trở về nhà và ngâm mình vào bồn tắm; trong những phút thư giãn hiếm hoi đó, anh có thể chiêm ngưỡng Đức Phật một cách trọn vẹn, không vướng bận những toan lo của công việc hàng ngày!

4. Sau khi Đức Phật nhập diệt ngót nửa thiên niên kỷ, không thấy ai vì nhớ thương Phật mà tạo hình tượng Ngài. Quan niệm bấy giờ cho rằng không ai có thể tạo nên một pho tượng Phật bao gồm được sắc tướng trang nghiêm với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Chúng đệ tử tôn kính và tưởng nhớ đến Ngài qua những biểu tượng thiêng như: dấu chân, chiếc ngai, cội bồ đề hay bánh xe chuyển pháp luân… Và có lẽ, phải chăng, chúng đệ tử bấy giờ cũng không muốn hình ảnh Đức Phật bị “trần tục hóa” kiểu như “cùng sống với” những người thế tục như trên đã nói?!

Song đến đầu Công nguyên, dưới triều đại Kushan, nhu cầu có một thánh tượng Đức Phật để tôn thờ trở nên tha thiết hơn bao giờ hết. Đó là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của Phật giáo Đại thừa. Nhiều trung tâm nghệ thuật xuất hiện, tiêu biểu nhất là Gandhara và Mathura, đã chế tác nên rất nhiều hình tượng Phật với nhiều kích cỡ và tư thế khác nhau. Đức Phật bấy giờ không chỉ ngự trong điện, trong hang động, mà còn xuất hiện ở những chốn đông người lại qua. Từ biểu tượng thiêng đến dáng vẻ con người, hình ảnh Đức Phật đã trở nên hết sức sống động, gần gũi.

Hai mươi thế kỷ trước đã thế, nên không lạ gì khi trong thời đại ngày nay, chúng ta lại chứng kiến niềm khát ngưỡng muốn kéo Đức Phật đến gần hơn nữa với cuộc sống trần tục của con người. Đức Phật đã ung dung bước ra khỏi gian thờ tự trang nghiêm để xuống vườn, đến cả chốn công viên.

phattrongnhangoaivuon-3-content

Ảnh minh họa

Ấn Độ có rất nhiều công viên Đức Phật, như: Budhha Park ở Kanpur, thuộc bang Uttar Pradesh, một trong những thành phố đẹp nhất của Ấn Độ, tọa lạc bên dòng sông Hằng linh thiêng; đây là nơi vui chơi của trẻ em nhiều thế hệ. Trong khi đó, Gautam Buddha Park ở Lucknow từ lâu đã là điểm đến thú vị cho những cuộc pinic, ngày nay phần nhiều được sử dụng cho những cuộc hội nghị mang tính chính trị. Một dự án khác, công viên Đức Phật ở Patna, dự kiến sẽ hoàn thành vào giữa năm nay, nằm cạnh đại lộ Fraser, nơi sẽ tôn thờ một phần xá lợi của Phật. Đặc biệt, tại phía Nam thủ đô New Delhi có công viên Buddha Jayanti, được xây dựng nhân kỷ niệm lần thứ 2.500 ngày Đức Phật nhập Niết bàn. Nơi đây hàng năm diễn ra pháp hội đông đến hàng ngàn người. Ngày thường, trong công viên này, Đức Phật vẫn ngồi lặng lẽ hiền từ khi chung quanh Ngài có vô số cặp tình nhân đang ôm nhau thắm thiết. (Ở Ấn Độ, hiếm có cảnh trai gái thân mật với nhau giữa chốn đông người). Quả thật:

“Trăng lên

Dưới bóng Đức Phật

Đôi tình nhân hôn”.

(Thơ Nguyễn Thiên Thuận)

Thái Lan nổi tiếng có công viên Buddhamonthon - tỉnh Nakhon Pathom, phía Tây Bangkok, với tượng Phật đứng cao đến 15,8m. Ở Lào có công viên Đức Phật Xieng Khuan, nằm phía Nam thủ đô Vientiane, soi bóng xuống dòng Mekong. Công viên này được gọi là “thành phố tâm linh”, với hơn 200 pho tượng Phật giáo và Hindu giáo, đặc biệt là pho tượng Phật nằm dài đến 40m… Việt Nam có công viên Quách Thị Trang, nay mai còn có công viên Thích Quảng Đức,… nhưng vẫn chưa có công viên Đức Phật!

5. Không còn bất ngờ khi ở đâu đó, ta bắt gặp tôn tượng Đức Phật đang ngồi dưới một gốc cây, trên một bãi cỏ, hay bên một dòng suối. Dù ngồi ở đâu, gương mặt Ngài vẫn an nhiên và nụ cười hiền từ có sức lay động mạnh mẽ. Những đứa trẻ có thể chạy đến chơi với Ngài; người làm vườn cũng có thể đến nghỉ mát, ngồi uống nước bên Ngài. Ngài đã đản sinh dưới gốc cây, thành đạo dưới gốc câynhập diệt cũng dưới gốc cây. Thiên nhiên gần gũi với ngài, cũng giống như ngài đã gần gũi với con người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn…

Hình ảnh Đức Phật giờ đây đã trở nên gần gũi, quen thuộc với con người, phương Đông cũng như phương Tây. Tại chốn phồn hoa đô hội hay nơi thôn quê hẻo lánh, chúng ta đều có thể bất ngờ gặp Phật. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân ngỡ ngàng khi chiêm ngưỡng hình ảnh tôn nghiêm của Đức Phật tại chốn đệ nhất ăn chơi Las Vegas - Hoa Kỳ. Nhà văn Văn Cầm Hải xúc động khi trông thấy Ngài tại ngôi làng cổ Marken - Hà Lan, ngôi làng có lịch sử ngàn năm Thiên Chúa. “Làng Marken nằm ngoài bán đảo ở vùng biển Amsterdam. Như có ai xui khiến, trong khi dạo chơi ngắm cảnh quan, bất chợt bước chân tôi khấp lại trước khe tường hẹp giữa hai ngôi nhà: huyền bí trong kia khu vườn nhỏ, phía sau thân cây bạch dương trụi lá, Đức Phật uy nghi hiện ra. Khuôn mặt Ngài cô nghị trên bụi hoa dại màu nhung tía như máu của đất dịu dàng phun lên. Ai đã mang tượng Phật đến ngôi làng cổ từ ngàn năm nay chỉ có biết Chúa Jesus? (…) Tôi bất thần nhận ra mình chỉ là một hạt phân tử chuyển động, hòa tan và mất hút vào vẻ đẹp vô ngôn của bức tượng Phật. Khuôn mặt từ bi, đôi tay như nhã xuôi theo cánh đùi mà tôi phải nhón chân qua hàng rào mới nhìn thấy, Đức Phật hiển thị giữa gió ngàn khơi hoang vu”, anh kể (5).

Tại tòa cao điện lớn, tại chốn thờ tôn nghiêm, trên một giá sách hay trong một góc vườn, một công viên rộng lớn, trong cảnh rừng núi thâm u hay giữa chốn phồn hoa đô hội, Đức Phật điềm nhiên tĩnh tọa, nào có khác gì. Khác chăng đó là tấm lòng của chúng ta đối với Ngài như thế nào mà thôi!

Đỗ Thiền Đăng

(1) HT. Thích Thanh Từ dịch, kinh Tăng nhất A hàm, Viện Nghiên cứ Phật học Việt Nam, 1998, tr.403-422. (2) Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông, Thành hội Phật giáo TP.HCM, 1997, quyển I, tr.126. (3) Trí Quang dịch, Lương Hoàng sám, NXB Tôn giáo, 2006, tr.385&389. (4) Phật học phổ thông, tr.125. (5) Văn Cầm Hải, “Bóng Phật bên biển La Haye”, Trên dấu chân di thê, NXB Trẻ, 2003, tr.37-38.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 120)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 147)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 218)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 147)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 199)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 180)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 217)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 231)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 315)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 421)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 433)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 527)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 709)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 765)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 787)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 796)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 669)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 681)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 790)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 810)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 905)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 673)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 580)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 678)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 800)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 690)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 786)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 809)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 791)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 836)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 863)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 850)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1039)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1577)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 920)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1085)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1081)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1227)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1506)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1937)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1053)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1313)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1058)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 913)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1038)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1072)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1229)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1252)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 989)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1146)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant