Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật trong nhà, Phật ngoài vườn

24 Tháng Chín 201000:00(Xem: 16864)
Phật trong nhà, Phật ngoài vườn

Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí, hay trần tục hóa: như món đồ trang sức của những kẻ mến mộ. Thế nên, tượng Phật không chỉ ngự ở bàn thờ, không chỉ ngự ở trong nhà, mà còn ngự ở ngoài vườn, công viên!

1. Kinh Tăng nhất A hàm kể rằng, ngày nọ, Đức Thế Tôn nhận thấy tứ chúng có phần giải đãi; khiến cho họ khát ngưỡng Chánh pháp, Ngài đã lặng lẽ rời khỏi Kỳ Hoàn, đến thuyết pháp tại cõi trời Tam thập tam (Đao Lợi). Trong số hội chúng chư thiên nghe phápThích Đề Hoàn NhơnMa Gia hoàng hậu.

phattrongnhangoaivuon-1-content

Ảnh minh họa

Bốn bộ chúngnhân gian lâu không thấy Phật, bèn đến hỏi Tôn giả A Nan, nhưng Tôn giả cũng không rõ biết. Vua Ba Tư NặcƯu Điền không gặp được Như Lai cùng sinh sầu khổ. Quần thần hỏi vua Ưu Điền lo sầu việc gì mà sinh bệnh? Vua đáp: “Do chẳng thấy Như Lai, nếu không thấy Như Lai, ta sẽ chết mất!”. Quần thần do đó nghĩ rằng nên tạo hình tượng Phật, để cho vua “cung kính, thừa sự, lễ bái”, như thấy Phật ở bên cạnh, không lo sầu đến nỗi mạng chung.

Tượng Như Lai được tạc nên từ gỗ ngưu đầu chiên đàn, cao năm thước, khiến vua Ưu Điền rất mực hoan hỷ mà hết bệnh. Vua Ba Tư Nặc nghe vậy cũng cho người dùng vàng tử ma đúc nên hình tượng Như Lai, cao bằng với tượng Phật của vua Ưu Điền.

Đó chính là hai pho tượng Phật đầu tiên ở cõi Diêm Phù Đề(1).

2. Ngay từ buổi đầu, tượng Phật được tạo nên là để cho vua, rộng ra là cho tứ chúng, “cung kính, thừa sự, lễ bái”, như kinh Tăng nhất A hàm đã nói. Điều này khởi đầu cho việc thờ Phật - lễ Phật như ngày nay, tức thờ và lễ hình tượng Phật.

Trong truyền thống văn hóa Ấn Độ, năm vóc sát đất (lạy) là lối chào cung kính nhất. Chúng đệ tử chào Đức Thế Tôn theo cách này, “cúi xuống ôm chân Phật và đặt trán mình lên chân Ngài để tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn thờ một bậc tối thượng”. “Sau khi Phật nhập diệt, toàn thể tín đồ vẫn xem như Ngài còn tại thế, và cái cử chỉ cúi xuống ôm chân Phật vẫn còn tiếp nối tồn tại cho đến ngày nay và muôn ngàn năm sau. Cái cử chỉ ấy có công dụng làm cho tín đồ bao giờ cũng hình dung như Đức Phật còn ngồi trước mặt mình để chứng giám cho tấm lòng thành kính thiết tha của mình”(2).

Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy rằng, cử chỉ ấy về sau không đơn thuần là lối chào nữa mà bao hàm nhiều ý nghĩa, trong đó có cả sự quy ngưỡng, sám hốicầu nguyện. Văn Lương Hoàng sám có đoạn: “Kính lạy vô lượng hình tượng Phật khắp cả mười phương, cùng tận không giới, tượng vàng và tượng đàn hương của vua Ưu Điền tạo ra, tượng đồng của vua A Dục tạo ra, tượng đá ở Trung Hoa, tượng ngọc ở Tích Lan, và hết thảy các tượng khắp trong các quốc độ làm bằng vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não…”. “Nguyện xin Tam bảo đem nước đại bi mà rửa sạch tội lỗi nhơ bẩn cho hết thảy chúng sanh hiện chịu khổ trong địa ngục A Tì và tất cả các địa ngục khác, làm cho họ thân tâm thanh tịnh…”(3).

Lễ hình tượng Phật rõ ràng cũng là một pháp tu, vì thế đã có những bộ kinh chỉ thuần về danh hiệu Phật, Bồ tát, nổi tiếng như kinh Vạn Phật, Tam thiên Phật, Ngũ bách danh Quán Thế Âm,…; và những sám văn lễ Phật sám hối như: Lương Hoàng sám pháp, Từ bi đạo tràng sám pháp, v.v…

Thờ Phật song hành với việc lễ lạy, cho nên bàn Phật thường được quan tâm thiết trí tại nơi tôn nghiêm nhất của gia đình. “Bàn thờ Phật phải đặt chính giữa nhà (…). Nếu nhà lầu thì thờ Phật ở tầng trên”(4). Quan niệm thờ Phật như thế mặc dù đúng pháp, nhưng ít nhiều đã tạo nên sự xa cách giữa hình ảnh Đức Phật từ bi với đời sống chật vật, âu lo và đầy đau khổ của con người. Trong sâu thẳm tâm hồn, con người cần một Đức Phật gần gũi hơn!

phattrongnhangoaivuon-2-content

Ảnh minh họa

3. Pho tượng Phật đầu tiên rõ ràng được tạo nên từ chính cái “tình” của vua Ưu Điền đối với Phật. Hơn cả nỗi tương tư của trai giái thường tình, vua nhớ Phật đến sinh bệnh và có nguy cơ mạng chung. Pho tượng gỗ tạc kim dung Đức Phật đã cứu lấy sinh mạng vua. Với vua, tượng gỗ cũng chính là sắc thân Phật. Và ở bên tượng, vua cảm thấy như đang ở bên Phật, gần gũi với Phật, thỏa được lòng nhớ mong, khát ngưỡng.

Như vậy, luôn được gần Phật hay gần tôn tượng Ngài là niềm hạnh phúc to lớn không chỉ với vua Ưu Điền, mà còn với tất cả chúng ta. Bên Phật như bên cha lành, như bên mẹ hiền, bên suối nguồn thơm mát của từ bi, trí tuệ.

Từ ý thức đó, nhiều người muốn được hàng ngày chiêm ngưỡng Phật nên không đặt tượng Ngài trên bàn thờ, mà đặt ở những nơi mà họ sống nhiều nhất. Một cách rất ngẫu nhiên, trong nhiều ngôi nhà hiện đại, tượng Phật có thể xuất hiện ở bàn làm việc, ở kệ sách, trên chiếc đôn nhỏ, hay trang trọng hơn là ngay lối vào ra. Khi đi đứng, lúc nằm ngồi, những người trong gia đình đều có thể nhìn thấy Phật.

Từ chốn thờ tôn nghiêm, Đức Phật đã bước vào cuộc sống bề bộn, âu lo của con người trần tục. Một Đức Phật để thờ kính, lễ lạy nay đã trở thành một Đức Phật để gần gũi, chan hòa và để sống với… Rất có thể chủ nhà chỉ đơn thuần xem tượng Phật như là một kiểu tượng trang trí, nhưng không thể phủ nhận rằng họ cũng ít nhiều cảm mến được nét đẹp từ bi toát lên từ dung tượng Ngài.

Kiểu “thế tục hóa” tôn tượng Phật như thế cũng là điều tự nhiên. Song vấn đề lại gây tranh cãi khi có người quá yêu kính Đức Phật, đến độ để Ngài sống “quá gần gũi” với mình như câu chuyện sau đây:

Một Phật tử nọ cho một người phương Tây thuê nhà. Một hôm, chủ nhà phát hiện trong phòng vệ sinh của chàng Tây trẻ có một pho tượng Phật. Chủ nhà lấy làm giận dữ vì cái lẽ bất kính ấy đối với vị giáo chủ thiêng liêng của mình. Nhưng chàng Tây trẻ khăng khăng rằng, xét về niềm tôn kính, nếu so với chủ nhà, thì anh ta tôn kính Đức Phật không kém. Bởi lẽ, phòng vệ sinh là nơi anh sống nhiều nhất. Sau một ngày làm việc căng thẳng, anh trở về nhà và ngâm mình vào bồn tắm; trong những phút thư giãn hiếm hoi đó, anh có thể chiêm ngưỡng Đức Phật một cách trọn vẹn, không vướng bận những toan lo của công việc hàng ngày!

4. Sau khi Đức Phật nhập diệt ngót nửa thiên niên kỷ, không thấy ai vì nhớ thương Phật mà tạo hình tượng Ngài. Quan niệm bấy giờ cho rằng không ai có thể tạo nên một pho tượng Phật bao gồm được sắc tướng trang nghiêm với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Chúng đệ tử tôn kính và tưởng nhớ đến Ngài qua những biểu tượng thiêng như: dấu chân, chiếc ngai, cội bồ đề hay bánh xe chuyển pháp luân… Và có lẽ, phải chăng, chúng đệ tử bấy giờ cũng không muốn hình ảnh Đức Phật bị “trần tục hóa” kiểu như “cùng sống với” những người thế tục như trên đã nói?!

Song đến đầu Công nguyên, dưới triều đại Kushan, nhu cầu có một thánh tượng Đức Phật để tôn thờ trở nên tha thiết hơn bao giờ hết. Đó là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của Phật giáo Đại thừa. Nhiều trung tâm nghệ thuật xuất hiện, tiêu biểu nhất là Gandhara và Mathura, đã chế tác nên rất nhiều hình tượng Phật với nhiều kích cỡ và tư thế khác nhau. Đức Phật bấy giờ không chỉ ngự trong điện, trong hang động, mà còn xuất hiện ở những chốn đông người lại qua. Từ biểu tượng thiêng đến dáng vẻ con người, hình ảnh Đức Phật đã trở nên hết sức sống động, gần gũi.

Hai mươi thế kỷ trước đã thế, nên không lạ gì khi trong thời đại ngày nay, chúng ta lại chứng kiến niềm khát ngưỡng muốn kéo Đức Phật đến gần hơn nữa với cuộc sống trần tục của con người. Đức Phật đã ung dung bước ra khỏi gian thờ tự trang nghiêm để xuống vườn, đến cả chốn công viên.

phattrongnhangoaivuon-3-content

Ảnh minh họa

Ấn Độ có rất nhiều công viên Đức Phật, như: Budhha Park ở Kanpur, thuộc bang Uttar Pradesh, một trong những thành phố đẹp nhất của Ấn Độ, tọa lạc bên dòng sông Hằng linh thiêng; đây là nơi vui chơi của trẻ em nhiều thế hệ. Trong khi đó, Gautam Buddha Park ở Lucknow từ lâu đã là điểm đến thú vị cho những cuộc pinic, ngày nay phần nhiều được sử dụng cho những cuộc hội nghị mang tính chính trị. Một dự án khác, công viên Đức Phật ở Patna, dự kiến sẽ hoàn thành vào giữa năm nay, nằm cạnh đại lộ Fraser, nơi sẽ tôn thờ một phần xá lợi của Phật. Đặc biệt, tại phía Nam thủ đô New Delhi có công viên Buddha Jayanti, được xây dựng nhân kỷ niệm lần thứ 2.500 ngày Đức Phật nhập Niết bàn. Nơi đây hàng năm diễn ra pháp hội đông đến hàng ngàn người. Ngày thường, trong công viên này, Đức Phật vẫn ngồi lặng lẽ hiền từ khi chung quanh Ngài có vô số cặp tình nhân đang ôm nhau thắm thiết. (Ở Ấn Độ, hiếm có cảnh trai gái thân mật với nhau giữa chốn đông người). Quả thật:

“Trăng lên

Dưới bóng Đức Phật

Đôi tình nhân hôn”.

(Thơ Nguyễn Thiên Thuận)

Thái Lan nổi tiếng có công viên Buddhamonthon - tỉnh Nakhon Pathom, phía Tây Bangkok, với tượng Phật đứng cao đến 15,8m. Ở Lào có công viên Đức Phật Xieng Khuan, nằm phía Nam thủ đô Vientiane, soi bóng xuống dòng Mekong. Công viên này được gọi là “thành phố tâm linh”, với hơn 200 pho tượng Phật giáo và Hindu giáo, đặc biệt là pho tượng Phật nằm dài đến 40m… Việt Nam có công viên Quách Thị Trang, nay mai còn có công viên Thích Quảng Đức,… nhưng vẫn chưa có công viên Đức Phật!

5. Không còn bất ngờ khi ở đâu đó, ta bắt gặp tôn tượng Đức Phật đang ngồi dưới một gốc cây, trên một bãi cỏ, hay bên một dòng suối. Dù ngồi ở đâu, gương mặt Ngài vẫn an nhiên và nụ cười hiền từ có sức lay động mạnh mẽ. Những đứa trẻ có thể chạy đến chơi với Ngài; người làm vườn cũng có thể đến nghỉ mát, ngồi uống nước bên Ngài. Ngài đã đản sinh dưới gốc cây, thành đạo dưới gốc câynhập diệt cũng dưới gốc cây. Thiên nhiên gần gũi với ngài, cũng giống như ngài đã gần gũi với con người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn…

Hình ảnh Đức Phật giờ đây đã trở nên gần gũi, quen thuộc với con người, phương Đông cũng như phương Tây. Tại chốn phồn hoa đô hội hay nơi thôn quê hẻo lánh, chúng ta đều có thể bất ngờ gặp Phật. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân ngỡ ngàng khi chiêm ngưỡng hình ảnh tôn nghiêm của Đức Phật tại chốn đệ nhất ăn chơi Las Vegas - Hoa Kỳ. Nhà văn Văn Cầm Hải xúc động khi trông thấy Ngài tại ngôi làng cổ Marken - Hà Lan, ngôi làng có lịch sử ngàn năm Thiên Chúa. “Làng Marken nằm ngoài bán đảo ở vùng biển Amsterdam. Như có ai xui khiến, trong khi dạo chơi ngắm cảnh quan, bất chợt bước chân tôi khấp lại trước khe tường hẹp giữa hai ngôi nhà: huyền bí trong kia khu vườn nhỏ, phía sau thân cây bạch dương trụi lá, Đức Phật uy nghi hiện ra. Khuôn mặt Ngài cô nghị trên bụi hoa dại màu nhung tía như máu của đất dịu dàng phun lên. Ai đã mang tượng Phật đến ngôi làng cổ từ ngàn năm nay chỉ có biết Chúa Jesus? (…) Tôi bất thần nhận ra mình chỉ là một hạt phân tử chuyển động, hòa tan và mất hút vào vẻ đẹp vô ngôn của bức tượng Phật. Khuôn mặt từ bi, đôi tay như nhã xuôi theo cánh đùi mà tôi phải nhón chân qua hàng rào mới nhìn thấy, Đức Phật hiển thị giữa gió ngàn khơi hoang vu”, anh kể (5).

Tại tòa cao điện lớn, tại chốn thờ tôn nghiêm, trên một giá sách hay trong một góc vườn, một công viên rộng lớn, trong cảnh rừng núi thâm u hay giữa chốn phồn hoa đô hội, Đức Phật điềm nhiên tĩnh tọa, nào có khác gì. Khác chăng đó là tấm lòng của chúng ta đối với Ngài như thế nào mà thôi!

Đỗ Thiền Đăng

(1) HT. Thích Thanh Từ dịch, kinh Tăng nhất A hàm, Viện Nghiên cứ Phật học Việt Nam, 1998, tr.403-422. (2) Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông, Thành hội Phật giáo TP.HCM, 1997, quyển I, tr.126. (3) Trí Quang dịch, Lương Hoàng sám, NXB Tôn giáo, 2006, tr.385&389. (4) Phật học phổ thông, tr.125. (5) Văn Cầm Hải, “Bóng Phật bên biển La Haye”, Trên dấu chân di thê, NXB Trẻ, 2003, tr.37-38.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5468)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10535)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6103)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9369)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6426)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5983)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7512)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7325)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5220)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8109)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5932)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9649)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7424)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7439)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6232)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5324)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5872)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5678)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3976)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5720)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4098)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7534)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5730)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21936)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5658)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7105)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5041)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6449)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5827)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5018)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7064)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6059)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5581)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5886)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6025)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6851)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6441)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6089)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6504)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6201)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6393)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5617)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6917)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4571)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7796)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6052)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7304)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7737)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5509)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5156)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5688)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5543)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5534)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5028)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4292)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6054)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5641)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6300)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8534)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant