Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tập Tục Sóc Vọng và ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa ở vùng đất Nam bộ

26 Tháng Chín 201000:00(Xem: 20644)
Tập Tục Sóc Vọng và ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa ở vùng đất Nam bộ

Văn hóa xã hộitín ngưỡng tôn giáo là một hiện tượng khảo sát của văn minh nhân loại. Như chúng ta đã biết, văn hóa Việt Nam nói chung, hay các tập tục - tín ngưỡng - lễ hội nói riêng, trải qua quá trình phát triển lịch sử của dân tộc đã chịu nhiều ảnh hưởng của các trào lưu văn hóa, tôn giáo vốn đã du nhập vào nước ta hòa quyện để trở thành truyền thống dân gian của dân tộc.

Dĩ nhiên, những truyền thống dân gian nguyên thủy của các dân tộc người bản xứ được coi là thủy tổ của dân tộc Việt dần dần được pha trộn với các nền văn hóa khác mà phát triển, thì chủ thể không còn là bản sắc ban đầu của nó. Đó là một hoàn cảnh mang tính đặc thù của người Việt, vốn dĩ thuyết minh cho phần nghiên cứu chuyên đề này là phong tục tập quán mang ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa ở vùng đất Nam bộ.

Một điển hình cho hình thái này là Tập tục Sóc, Vọng, một tập tục gắn liền với đời sống người Á Đông, và đặc biệt là với dân tộc Việt ở miệt đồng bằng Nam bộ, nơi mà mọi sinh hoạt, giao thông, kinh tế, văn hóa, tín ngưỡng đều ít nhiều phụ thuộc vào các con nước thủy triều trên sông rạch.

I. TẬP TỤC SÓC VỌNG.

a) Nguồn gốc:

- Sóc: là tên gọi ngày bắt đầu của một tháng (1), là trước, mới (2), là bắt đầu, khởi đầu (3).

- Vọng: là ngày rằm (tức ngày 15) tháng âm lịch. Vọng có nghĩa là trông xa (1), là ngày mặt trăng mặt trời đối xứng nhau ở hai cực (2). Người xưa cho rằng vì thế mặt trời mặt trăng nhìn rõ nhau, thấu suốt ánh sáng nhau, soi chiếu vào mọi tâm hồn con người trở nên sáng suốt, trong sạch, đẩy lùi được mọi đen tối vẩn đục cái tâm vốn sáng suốt, trong sạch từ trong bản thể. Chữ Vọng còn có nghĩa trông mong (3), ước mong, người xưa lấy ý nghĩa này kết hợp với ý nghĩa trước để làm ngày cầu nguyện. Người ta tin rằng ở ngày này nhờ sự thông suốt của mặt trời, mặt trăngthần thánh, ông bà, tổ tiên sẽ thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng với các cõi khác và sự thông cảm tha thứ sẽ được đáp lại.

 b) Ý nghĩa:

Trải qua quá trình lịch sửảnh hưởng của các trào lưu tôn giáo, ngày Sóc, Vọng được nhận thức ở mỗi nơi có khác ít nhiều tùy theo con người, thổ nhưỡng và tín ngưỡng chủ đạo. Nhưng việc cúng lễ ở hai ngày này giống nhau và coi như là một lễ chung cho cả hai ngày không khác. Người xưa coi ngày Sóc, Vọng là ngày tưởng nhớ tổ tiên, cúng bái ông bà, là ngày nghỉ ngơi trong lao động sản xuất và là ngày chay tịnh để sửa mình.

Theo truyền thống của Nho, Lão giáo, ngày Sóc, Vọng là ngày "Thiên địa mở thông", là sự thông thương của tất cả mọi chướng ngại giữa ba cõi (Thiên, Địa, Nhân). Trời sẽ chứng giám cho hành vi của con người, ông bà tổ tiên sẽ về cảm nhận lòng thành của con cháu, và quỉ thần ám chướng sẽ lui khỏi những ngày này không nhiễu hại ai.

Ngày Sóc, Vọng còn có ý nghĩa "Cát tường" tức là ngày lành tốt nhất trong tháng. Và ý này được chấp nhận chung cho cả quan niệm phương Đông ở Nho - Phật - Lão, như ngày Chúa nhật của phương Tây với Thiên Chúa giáo.

Đối với Phật giáo, ngày Sóc, Vọng là ngày "Trưởng tịnh" tức là ngày trong sạch nhất. Ngày này, những tu sĩ ở chùa thường làm lễ Bố-tát tức là kiểm điểm hành vi của mình và tụng giới luật, còn lễ chính thức cho nhân dân và người theo đạo Phật đó là lễ "Sám hối" nên còn được gọi là ngày Sám hối. Ngày này mọi người tụ tập về chùa vào lúc màn đêm vừa buông xuống để cùng các vị Tăng lễ Phật, sám hối cầu nguyện bỏ dữ làm lành sửa đổi thân tâm.

c) Sự du nhập:

Ngày Sóc, Vọng có điểm xuất phát từ khi hình thành nên âm lịch ở nước Trung Hoa Cổ đại. Trải qua bao thời đại, nước Trung Hoa gồm thâu thiên hạ trở thành một đất nước cường thịnh, phát triển mọi mặt về văn hóa, quân đội và Nhà nước phong kiến. Vua quan phong kiến nước Trung Hoa vẫn tiếp tục mộng bá quền, coi mọi dân tộc đất nước lân bang khác là chư hầu, dùng bạo lực xâm lược để trấn áp và bành trướng nền văn hóa của họ để cai trị, đồng hóa.

Chính vì thế văn hóa Trung Quốc đã truyền vào Việt Namnhân dân ta đã hấp thụ âm lịch cùng chấp nhận nó. Ban đầu ảnh hưởng Lão giáo, Khổng giáo gắn rất chặt vào các ngày lễ theo văn hóa Trung Quốc, nhưng về sau nhân dân chỉ chấp nhận sử dụng âm lịch và biến ngày Sóc, Vọng thành ngày cúng ông bà của dân tộc mình, rồi tiếp tục nhận ảnh hưởng Phật giáo vào tập tục đó để đầy dần ảnh hưởng Nho - Lão giáo ra, hình thành nên nét riêng của dân tộc trong ngày Sóc, Vọng.

Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai mà có những hình thái sinh hoạt đặc thù mà người viết đang nghiên cứu cái đặc thù ấy nơi bài này.

 II. ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO CHI PHỐI TẬP TỤC NHƯ THẾ NÀO?

a) Ngày Trưởng tịnh:

Như đã dẫn, ngày Sóc, Vọng còn được gọi là ngày Trưởng tịnh, sám hốiăn chay, ba ý nghĩa ấy xuất phát từ ảnh hưởng của Phật giáo.

Đúng ra, ngày Trưởng tịnh đã được Phật giáo hóa từ khi Phật giáo Đại thừa truyền vào Trung Hoa ở phương Bắc và truyền vào các nước theo Phật giáo Tiểu thừa ở phương Nam. Và ở Nam bộ, là điểm hội tụ của cả hai hệ phái Phật giáo ấy trong tập tục Sóc, Vọng, vì Phật giáo Tiểu thừa sử dụng lịch Ấn Độ không sử dụng âm lịch Trung hoa, nhưng ngày làm lễ Bố-tát của họ cũng được quy định bằng ngày trăng sáng và ngày không trăng. Vì vậy, ngày Sóc, Vọng ở Nam bộ, nơi vùng đất cũ của người Khơme còn sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo Tiểu thừa, cộng với tín ngưỡng Phật giáo Đại thừa được mang đến từ người Việt lưu cư, đã hòa quyện nhau trở thành ngày của Phật giáo mang đặc điểm khác biệt với Trung bộ và Bắc bộ về Sóc, Vọng.

 c) Ngày Sám hối:

- Đêm mồng một:

Nam bộ không có thói quen gọi là ngày Sóc, Vọng, mà người ta thường gọi một cách quen thuộc là ngày rằm (tức ngày Vọng - 15) và ngày mồng một (tức ngày Sóc - 30,1). Không khí của ngày rằm, mồng một ở đây được coi là những ngày quan trọng hơn mọi ngày trong tháng.

Nhân một chuyến đi khảo sát tại Bình Đại, Bến Tre cho bài khảo cứu này vào một tối 29 (vì là tháng thiếu), mới hơn 6 giờ chiều, trời đã tối không thấy rõ mặt người, đêm cuối tháng quả là một đêm trừ tịch, lại ở vùng quê chưa hề có điện, người viết ngồi từ một quán ở đầu xóm nằm trên con đường cái của làng, đã nhìn thấy một quang cảnh rộn rịp khi tiếng chuông chùa bắt đầu ngân vang trong đêm vắng. Từng nhà, từng nhà người ta đi ra với tay cầm những con cúi (Một loại bó bằng lá dừa khô, đốt lên để cầm đi đường) đưa tới đưa lui để có ánh sáng soi đường, đồng một hướng đổ về ngôi chùa có tiếng chuông ngân.

Thật là một cảnh tượng sống động trong đêm với hằng loạt đốm lửa con cúi đổ về một hướng như lễ hội rước đèn. Nào là đàn ông, đàn bà, các cụ già và một ít các người trẻ, đa số là nữ như tục ngữ có câu: "Đình là của các ông, chùa là của các bà". Họ ăn mặc khá tề chỉnh so với lúc sinh hoạt ban ngày, người nào tay cũng có bó bông, hoặc nhang, trái cây, họ đi với tâm trạng thơ thới nhẹ nhàng, vui vẻ nhưng trang trọng để chuẩn bị dự lễ Sám hối nơi ngôi chùa làng mà tiếng chuông vang đang dần dần thôi thúc.

Người ta không đi chùa hết, những người ở lại nhà và các gia đình không theo Phật giáo nhưng thờ ông bà bày đồ cúng ra bàn Thiên (Loại bàn như cái khay đóng trên một cây cột trước nhà) lên nhang đèn cúng vái trời Phật giữa đêm tối như một chuỗi hoa đèn trông thật có ý nghĩa. Một bà lão ở quán cho người viết biết: "Đó là tục lệ thường xuyên của dân xứ này trong đêm rằm mồng một, ngày thường thì không như vậy, họ chỉ thắp hương nơi bàn Thiên mà thôi, không có sáng sủa như đêm nay.

 - Đêm trăng rằm:

Đặc tính của đêm trăng rằm là con nước đầy. Vì thế, nét sinh hoạt trên quê hương sông nước là một nét đặc trưng của Nam bộ trong sinh hoạt nhân dân, nhất là đối với ngôi chùa ở miệt này.

Một chuyến đi khác tại Nha Mân, Đồng Tháp vào trong đêm trăng tròn, người viết được chứng kiến ánh trăng trải đầy trên mọi con sông rạch, lũ lượt ghe xuồng đổ về ngôi chùa Hội Phước, ngôi chùa lớn của địa phương nằm bên con rạch. Trước bến chùa, đã đầy chật ghe xuồng neo đậu, tiếng chào hỏi, những bó bông vườn hay trái cây, nhang đèn được đem đến dâng cúng lên chùa. Ngày hội trăng Rằm này là nơi gặp gỡ tốt nhất của họ sau nửa tháng lao động. Họ đến chùa dự lễ Sám hối xong, còn ngồi nán lại hiên chùa hàn huyên, lớp trẻ thì dạo chơi ở vườn hay các quán nhỏ, chỉ mở ra vào những ngày này. Sau một khoảng thời gian độ 9 giờ đêm, bến ghe lần lượt tan khi họ ra về. Lúc này trăng đã chếch bóng trên bầu trời, đối với người dân làng đi chùa lễ Phật đêm Rằm, đây là khoảnh khắc sung sướng nhất, không vội vã, với tâm trạng an lành, ung dung chèo xuồng dưới ánh trăng đêm tỏa xuống mặt sông của con nước Rằm đầy ắp, là cả một sự tươi mát thơ mộng và nhẹ nhàng của tâm hồn họ sau khi lễ Phật, mà không dễ gì người ở thành thị có được.

Những hình ảnh và cuộc sống như thế lần lựa theo ngày tháng trôi đi lập lại trên khắp xóm làng Nam bộ, nó in vào tâm trí con người khi lớn lên, dù cho họ có ra đi phương trời nào đi nữa, vì cuộc sinh kế, vẫn không thể phai mờ trong ký ức về quê hương của mình, đậm nét ngôi chùa, đêm Rằm, lễ Phật, vui chơi... Hình tượng nghệ thuật này từng được một thi sĩ thể hiện cảm xúc:

Mỗi tối dân quê đón gió lành,
Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh,
Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi,
An ủi dân hiền mọi mái tranh...

Trầm đốt hương thơm bay ngạt ngào,
Thôn trên xóm dưới dạ nao nao,
Dân làng tắm gội lên chùa lễ,
Mười bốn, ba mươi mỗi tối nào...

(Trích bà thơ "Nhớ chùa" của Huyền Không, đăng trên tạp chí Phật giáo Việt Nam, xuất bản năm 1956, Đà Lạt.)

c) Ngày ăn chay:

Ăn chay, hay còn gọi là ăn lạt, phát xuất từ quan niệm từ bi của Phật giáo Đại thừa, khuyên tối thiểu mỗi người theo đạo Phật phải tập ăn chay mỗi tháng là hai ngày rằm và mồng một.

Ngày chay là một bộ mặt khác của chợ búa - điểm hội tụ sinh hoạt sôi động nhất cho nhu cầu con người hàng ngày. Những loại thức ăn chay được bày bán, những quán đồ chay được mời chào và phong cách mọi người cũng khác đi khi họ ăn chay. Một điểm nữa là bông trái được bày bán la liệt, có thể nói ngày Sóc, Vọng là một ngày đầy màu sắc với bông hoa rực rỡ, người làm vườn thì chở hoa ra chợ và mỗi người đi chợ đều mang về một bó hoa trong giỏ. Nét nghiêm túc được thể hiện nơi mọi người, việc sát sanh tranh cãi được hầu như gác lại để dành cho cái thiện ở mỗi người thể hiện ra.

 III. CÁC HÌNH THỨC SINH HOẠT NHÂN DÂN

a) Sự khác biệt giữa các ngày Sóc, Vọng trong năm:

Mặc dù năm tháng trôi qua như mặt nước hồ phẳng lặng đều đặn như nhau, thế nhưng ở cùng ngày Sóc, Vọng trong năm cũng có những hình thức sinh hoạt khác biệt nhất định của nó. Trong đó ảnh hưởng Phật giáo hầu như gói gọn tất cả mọi ngày lễ ấy. Có thể lập được biểu đồ để so sánh các ngày lễ lớn của Sóc, Vọng như sau theo ảnh hưởng Phật giáo:

NGÀY SÓC

- 30 - 1 tháng Giêng (Tết âm lịch), Lễ Vía Phật Di-lặc
- 30 tháng Bảy: Lễ Vía Địa Tạng Bồ-tát.

NGÀY VỌNG

- Rằm tháng Giêng: Lễ Cầu phúc, cầu an, hành hương.
- Rằm tháng Hai: Lễ Phật nhập Niết bàn.
- Rằm tháng Tư: Lễ Phật đản.
- Rằm tháng Bảy: Lễ Vu-lan, báo hiếu, xá tội vong nhân.
- Rằm tháng Mười: Lễ Cúng rằm.

Trong đó:

- 12 ngày Sóc
- 2 Đại lễ.
- 10 lễ bình thường.
- 12 ngày Vọng
- 5 Đại lễ.
- 7 Lễ bình thường.

b) Những quan niệm khác nhau về ngày Sóc, Vọng:

Cái gì đã đi vào truyền thống dân gian thì đều mang trong tự bản thântính chất hòa nhập xã hộiphản ảnh xã hội của địa phương chấp nhận nó. Bên cạnh đó, là quan niệm của các tầng lớp nhân dân trong mối quan hệ tập tục này về hình thức sinh hoạttâm lý. Đi sâu vào khảo sát, ta thấy các quan niệm của họ về ngày Sóc, Vọng như sau:

1. Đối với người tín ngưỡng dân gian:

Tín ngưỡng dân gian ở đây thể hiện ở đình và miếu. Một bộ phận nhân dân trong ngày Sóc, Vọng sẽ đến đình hay miếu của làng mình để đốt nhang, chưng dọn quả phẩm cúng Sóc, Vọng. Thực ra ngày Sóc, Vọng chỉ là ngày lễ bình thường mở cửa cho mọi người đến viếng và lễ như thường lệ mà thôi, chứ không phải là có lễ gì đặc thù trong những ngày này. Bởi đó là ngày nghỉ ngơi của nhân dân với quan niệm hướng về đạo lý truyền thống.

+ Đình là biểu tượng của làng, quan niệm về ngày Sóc, Vọng mang ảnh hưởng Nho giáo, mặc dù các Thần làng được thờ là các vị công thần thời phong kiến Việt Nam có công ở làng hoặc là anh hùng dân tộc. Sinh hoạt chủ yếu là tế lễ định kỳ với Lễ Sinh dâng cúng, và họp mặt hội đình để bàn việc làng nước, trùng tu, tương tế v.v... Đối tượng chính của đình là các bô lão chức sắc của làng và nam giới, họ đến đình để được phân công các công việc và thực hiện như một bổn phận đối với nghĩa vụ công cộng của địa phương mình.

+ Miếu, hay còn gọi là miễu, là nơi tín ngưỡng dân gian thờ Bà, gồm các vị thánh dân gian như: Năm Bà Ngũ Hành, Bà Thiên Hậu, Bà Chúa Xứ, Bà Đen (Linh Sơn Thánh Mẫu), Bà Mẹ Sanh, Mẹ Độ, Thánh Anh, Kim Huệ v.v... Và đặc biệt là bất cứ miếu nào cũng đều có thờ Quan Thế Âm Bồ-tát, mà dân gian gọi là Phật Bà. Ngày Sóc vọng ở miếu có phần rộn rã hơn đình, qui tụ một bộn phận nam phụ lão ấuđa sốphụ nữ. Sinh hoạt của họ trong những ngày này là cúng rằmlễ cầu an, tụng kinh Phổ Môn, kinh của Phật giáo. Sau đó là họp hội miếu bàn việc tương tế phước thiện giúp đỡ những hoàn cảnh tang tế khó khăn của người trong Hội.

2. Đối với người theo đạo Phật:

Phật giáo đối với nhân dân Nam bộ có mối gắn bó lâu đời trên mảnh đất này, hóa quyện với đạo Phật của người Khơme vốn có tự lâu đời. Tuy nhiên người Khơme sử dụng lịch Ấn Độ trong sinh hoạt, so với ngày Sóc, Vọng của người Việt với ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa, về hình thức sinh hoạt có khác nhau nhưng quan niệm như nhau.

3. Đối với người không theo tín ngưỡng:

Ngày Sóc, Vọng đối với họ như là ngày nghỉ ngơi trong lao động, nhưng có khác là họ vẫn coi như hai ngày truyền thống đạo lý, ngày lành nhất để sắm sửa cúng kiến ông bà tổ tiên. Quan niệm của họ là ngày cúng ông bà, là bổn phận chữ hiếu đối với người quá cốgiáo dục con cái theo truyền thống đạo lý đặc thù của dân Nam bộ: Hiếu và Nghĩa. Mọi hành động bất thiện, những nghề nghiệp thấp kém đều hạn chế hoạt động trong ngày Sóc, Vọng, như là nghề: mổ heo, bán rượu, cờ bạc v.v...

 IV. GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG ĐẠO LÝ DÂN TỘC:

a) Nói truyền thống, tức là nói đến mặt lịch sử của tập tục. Trải qua bao đời, ngày Sóc, Vọng đã trở thành tập tục của người Việt Nam trong bối cảnh cụ thể đất nước - và riêng ở Nam bộ. Đặc biệt là gắn vào sự phát triển kinh tế nông nghiệp lúa nước - một nền nông nghiệp tùy thuộc vào con nước tự nhiên được tính toán bằng âm lịch một cách chính xác theo điều kiện sinh thái của miền Nam. Từ đó, văn hóa được dựa vào bối cảnh nông nghiệp ấy mà phát triển phù hợp với đất nước con người, được qui định bởi xã hội ấy.

Một ví dụ để chứng minh: Trong ngày Sóc, Vọng, là ngày con nước đầy ở mức cao nhất không có ròng sát, thì công việc đồng áng hầu như phải gác lại toàn bộ, không có thể cày cấy gieo trồng, chỉ có thể ngh ngơi bơi xuồng đi lại thăm hỏi nhau hay dự hội hè đình đám vui chơi, hoặc dự lễ nơi chùa chiền yên tĩnh...

b) Nói về đạo đức, tức là nói đến tính xã hội của tập tục. Đối với xã hội Nam bộ, ngày Sóc, Vọng là dấu ấn đậm nhất trong mọi sinh hoạt của họ, một ngày lành tốt để làm việc thiện, để răn mình đừng làm điều xấu trong công việc, hành vi ngôn ngữtư tưởng. Ở thành phố, chúng tathể không thấy được ảnh hưởng tư tưởng của những ngày này, vì xã hội công nghiệp chú trọng đến dương lịch, Chúa nhật và ngày nghỉ lễ là ngày vui chơi. Nhưng ở xã hội nông nghiệp thì ngày âm lịch chi phối tất cả, và ngày nghỉ là ngày Sóc, Vọng với một ý nghĩa đạo đức thanh thản tâm hồn chứ không phải vui chơi.

Đối với người dân Nam bộ ở miền quê, thì ngày Sóc, Vọng luôn ở trong tâm khảm họ suốt những ngày ấy. Khảo cứu qua tâm lý các tầng lớp ta thấy:

+ Đối với người già, đây là ngày nhắc nhở con cháu cúng ông bà, làm lành lánh dữ, và họ đi đến chùa chiền đình miếu để gặp gỡ nhau như hình thức câu lạc bộ bây giờ.

+ Đối với người trung niên, lao động chính của gia đình, đây là ngày nghỉ ngơi sau mọi vất vả lao động, để sống với gia đình, hoặc chè chén bàn luận nhân tình thế sự, kinh nghiệm lao động.

+ Đối với tầng lớp thanh thiếu niên, đây là ngày được phép đến chùa để "công quả", một hình thức của việc từ thiện xã hội, học tập đạo đức làm người và được gặp gỡ trao đổi tình cảm vui chơi với nhau.

+ Đối với trẻ con, các em coi đây là những ngày thiêng liêng, có thể nhận được sự tha thứ mọi lỗi lầm của mình nơi người lớn đến đình chùa, và được hưởng những phần bánh trái sau khi cúng bái.

Đời này tiếp nối đời khác sống trong tinh thần đạo đức như thế, tính xã hội được định hình qua ngày Sóc vọng ăn vào nếp nghĩ của con người từ khi tấm bé cho đến trưởng thành tựa như một bức tranh đậm nét thực và ảo khắc vào tâm trí họ hình ảnh quê hương thân yêu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8780)
Sinh thuận, tử an là một phước báo lớn của con người. Một khi chưa biết nghiệp duyên của mình sẽ chết bình an hay bất an thì hãy cố gắng tu tập các thiện pháp.
(Xem: 8475)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 8014)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7757)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6961)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13832)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7559)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9324)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7854)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7795)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7354)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7741)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7475)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8681)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11087)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15458)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19233)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14926)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8843)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8843)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14674)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15293)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8536)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 10992)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11337)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8720)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9090)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19790)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24707)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8829)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9146)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10815)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9022)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7929)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8815)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8307)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7324)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11143)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7397)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8295)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17677)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44229)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45497)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45080)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10641)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8574)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7574)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7598)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7390)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12134)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7953)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8440)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9196)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8117)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8918)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 8033)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8193)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8698)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16358)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7151)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant