Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Xá lợi của Đức Phật

29 Tháng Chín 201000:00(Xem: 11478)
Xá lợi của Đức Phật


1. Định nghĩa Xá Lợi

Tiếng Phạn Sarìra, Pàli Sarìra có nghĩa là tử thi, di cốt: dịch ý là thể, thân, thân cốt, di thân. Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng sau khi viên tịch hỏa thiêu còn lại.

Hơn nữa, bảo tháp dùng để tôn trí xá lợi của Phật gọi là Tháp xá lợi; nơi an tri bình xá lợi của Phật gọi là Bình xá lợi; Pháp hội cúng dường xá lợi Phật gọi là Hội xá lợi.

Trong tiếng Phạn còn một từ nữa cũng được dùng chỉ cho xá lợi, đó là Dhàtu, phiên âm là Đà đô. Chữ Đà đô này có nghĩa là Toái thân xá lợi. Bản chú thích kinh Trường Bộ thuộc văn hệ Pàli ghi rằng thân thể hoạn chỉnh sau khi hỏa thiêu, phần di cốt còn lại gọi là Toàn thân xá lợi; phần tro còn lại gọi là Toái thân xá lợi.

Ngoài ra, nếu đem di cốt toàn thân tôn trí vào một ngôi tháp thì gọi là tháp Toàn thân xá lợi; còn tôn trí một phần di cốt vào tháp thì gọi là tháp Toái thân xá lợi. Thuyết Toàn thân, Toái thân xá lợi này bắt nguồn từ hai phương pháp thổ táng và hỏa táng của phái Lê Câu Phệ Đà thuộc thời kỳ cổ đại Ấn Độ. Họ gọi di thể thổ táng là Toàn thân xá lợihỏa táng Toái thân xá lợi.

2. Phân loại Xá Lợi

Theo kinh Dục Phật Công Đức thì xá lợi được chia thành hai loại là Sinh thân xá lợiPháp thân xá lợi.

- Sinh thân xá lợi còn gọi là Thân cốt xá lợi, tức là di cốt của Phật.
- Pháp thân xá lợi còn gọi là Pháp tụng xá lợi, tức là Giáo phápGiới luật của Phật còn lưu truyền lại.

Pháp Uyển Châu Lâm quyển 4 chia xá lợi làm ba loại: Xá lợi xương, xá lợi tóc xá lợi thịt.

- Xá lợi xương có màu trắng.
- Xá lợi tóc có màu đen.
- Xá lợi thịt có màu đỏ.

3. Giá trị của Xá Lợi

Kinh Kim Quang Minh quyển 4, phẩm Xả thân (Đ.16, 354) viết: "Xá lợi là kết tinh công phu tu tập Giới, Định, Tuệ, rất khó được, là phước điền tối thượng". Vì vậy có chỗ nói: Lễ bái di thân của Phật, lễ bái cây bồ đề chỗ Phật thành đạo, lễ bái tòa kim cươngdấu chân của Phật đi kinh hành đều có công đức như nhau.

Luận Đại Trí Độ quyển 59 chép rằng: Dù cúng dường một viên xá lợi nhỏ như hạt cải công đức cũng vô lượng, vô biên.

4. Sự tích chia Xá Lợi của Phật

Kinh Trường Bộ ghi lại việc 8 nước chia xá lợi của Thế Tôn khá tường tận: Sau khi làm lễ trà tỳ nhục thể Thế Tôn, những người Mallà xứ Kusinàrà tôn trí xá lợi Thế Tôn trong giảng đường, thành kính lễ bái, dâng hương hoa, cử lễ nhạc, múa hát cúng dường; đồng thời bảo vệ xá lợi một cách nghiêm ngặt.

 

Vua Ajàtasattu nước Magadha hay tin Thế Tôn đã diệt độ tại Kusinàrà, liền gởi sứ giả đến thỉnh cầu người Mallà: "Thế Tôn lạ người Sát đế lỵ, tôi cũng là người Sát đế lỵ, do vậy, tôi cũng đáng được một phần xá lợi của Thế Tôn để xây tháp cúng dường". Tiếp đến người Licchavì ở Vesàli; người Sakyà ở Kapilavatthu; người Buli ở Allakappa; người Koli ở Ràmagàma; Bà la môn Vethadìpaka ở Vethadìpa và người Mallà ở Pàvà cũng đều gởi sứ giả đến yêu cầu như trên. Nhưng các người Mallà ở Kusinàrà tuyên bố rằng: "Đức Thế Tôn đã diệt độ tại quê hương chúng tôi, nên chúng tôi có bổn phận bảo quản cúng dường xá lợi, không chấp nhận chia cho ai cả".

 

Thấy tình hình có vẻ gay cấn, Bà la môn Dona khuyên mọi người giữ bình tĩnh, không nên nóng nảy manh động, rồi ông đích thân chia xá lợi làm 8 phần bằng nhau, giao cho 8 sứ giả, còn phần ông nhận bình dùng đong chia xá lợi.

Việc chia xá lợi vừa kết thúc thì sứ giả của người Moriyà cũng vừa tới nơi đưa ra thỉnh nguyện của mình. Nhưng khi ấy, xá lợi đã chia hết chỉ còn lại tro than trà tỳ mà thôi. Do đó, sứ giả Moriyà ở Pipphalivana nhận lấy phần tro than ấy.

 

Thế là, ai nấy đều hoan hỷ thỉnh xá lợi về xứ mình xây tháp cúng dường. Vua Ajàtasattu cho xây tháp tại thành Vương Xá. Người Licchavi xây tháp tại Vesàli. Người Sakya xây tháp tại Kapilavatthu. Người Buli xây tháp tại Allakappa. Người Koli xây tháp tại Ràmagàma. Bà la môn Vethadìpaka xây tháp tại Vethadìpa. Người Mallà ở Pàvà xây tháp tại Pàvà. Người Mallà ở Kusinàrà xây tháp tại Kusinàrà. Bà la môn Dona xây tháp tại khu vườn nhà mình. Người Moriyà xây tháp tại Pipphalivana.

 

Như vậy có 8 tháp xá lợi, tháp thứ 9 là bình đong xá lợi và tháp thứ 10 là tro than lễ trà tỳ.

 

Ngoài ra, kinh này còn nói rằng một phần xá lợi giao cho Long vương và răng xá lợi được cúng dường tại cõi trời Đế Thích. [Kinh Trường Bộ, tập 1, Kinh Đại Bát Niết Bàn, từ số (24) đến hết, Viện NCPHVN ấn hành 1991].

 

Liên quan đến 8 tháp xá lợi này có nhiều truyền thuyết khác nhau. Vào năm 1898, một người Pháp là Ba Túc (W.C. Peppé) khai quật một ngôi mộ cổ tại Pipràvà, phía Nam nước Ni Bạc Nhĩ, được một hòm lớn, trong đó có hai hộp bằng sáp ong, một tráp nhỏ và mấy mảnh bể của bình đựng nước. Hai hộp sáp ong thì một lớn, một nhỏ đều đựng những mảnh xương. Hộp nhỏ có hình dáng quả cầu, ngăn thành hai phần, nửa phần trên là nắp đậy. Trên nắp khắc hai hàng chữ Brahmi thuộc thời đại vua A Dục. Nội dung nói: "Đây là chiếc hòm đựng xá lợi Phật của một nhà quí tộc thuộc dòng họ Thích Ca cùng em gái và vợ con ông lưu giữ thờ phụng". Dữ kiện này cho ta suy đoán đây là một trong 8 phần xá lợi mà người họ Thích nhận được trong dịp 8 nước phân chia xá lợi của Phật. Qua sự phát hiện này chứng tỏ các kinh Trường Bộ v.v... nói về việc chia xá lợi Phật là đúng sự thật. Miếng xương ấy về sau Chính phủ Anh đem tặng lại vua Tân La, nhà vua lại đem một phần tặng lại các nước Sri Lanka, Myanmar và Nhật Bản.

 

Ngoài ra, vào thời vua A Dục, ông đã cho khai quật 7 ngôi tháp xá lợi ngoài phạm vi nước La Ma Già, lấy xá lợi đựng vào 84.000 hộp nhỏ, rồi cho xây 84.000 bảo tháp cúng dường.

5. Xá Lợi Phật tại vài nước Phật giáo

a) Tại Sri Lanka (Tích Lan): Theo Đại sử thuộc văn hệ Pàli thì khi Ma Sẩn Đà (Mahinda) con vua A Dục đến Tích Lan truyền giáo, vua nước này là Thiên Ái Đế Tu (Devànampiya-Tissa) đã cầu xin vua A Dục ban cho xá lợi của Phật. Sau khi nhận được xá lợi, ông đã tổ chức lễ cung đón cực kỳ trang nghiêm.

 

Ngoài ra, trong Điều Sư Tử quốc (Tích Lan) thuộc Truyện Cao tăng Pháp Hiển chép: Trong thành của vị vua này có tinh xá răng Phật. Đại Đường Tây Vức ký quyển 11 cũng chép: Bên cạnh vương cung nước Tích Lantinh xá răng Phật.

b) Tại Tây Vức: Ở Tây Vức cũng có truyền thống cúng dường xá lợi Phật, như Truyện Pháp Hiển chép: Trong thành Ê Labiên giới nước Na Kiệt có Phật đỉnh cốt tinh xá. Điều Ca Tất Thí quốc trong Tây Vức ký quyển 1 chép rằng tại nước này có ngôi tháp do Long vương kiến tạo, nơi đây dùng để cúng dường xá lợi thịt xương của Phật. Trên bờ phía Nam của một con sông lớn ở Tây Bắc vương thành có một ngôi già lam của vị cựu vương, trong đó tôn trí một miếng xương đầu của Phật.

c) Tại Trung Quốc: Sách sử nước này ghi chép khá nhiều trường hợp do lòng chí thành mà cảm được xá lợi, như Xuất Tam Tạng ký tập quyển 13 ghi: Khi Khương Tăng Hội đến Giang Đông, yết kiến vua nước Ngô là Tôn Quyền, vua hỏi về sự linh nghiệm của Phật, Hội xin hẹn trong 21 ngày để cầu nguyện, quả nhiên cảm được xá lợi. Vua nghi ngờ, sai lực sĩ dùng dùi sắt đập phá, nhưng xá lợi chẳng hề hấn gì, khiến vua rất thán phục, bèn cho xây chùa Kiến Sơ để phụng thờ. Đây là ngôi chùa thờ xá lợi Phật đầu tiên tại Trung Quốc.

 

Lại nữa, Quảng Hoằng Minh tập quyển 17, tập Thần Châu Tam Bảo Cảm Thông Lục quyển thượng, Pháp Uyển Châu Lâm quyển 38, 40 đều có chép những sự thần dị của xá lợi và việc kiến tạo tháp cúng dường từ đời Tấn, đời Lưu Tống trở về sau.

Tây Vức ký quyển 12 chép: Khi Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang du học Tây Vức trở về nước có thỉnh về 150 viên xá lợi của Phật. Tống Cao tăng truyện quyển 1 cũng cho biết Nghĩa Tịnh đời Đường khi về nước cũng mang về 300 viên xá lợi.

 

Theo Quảng Hoằng Minh tập quyển 15 thì chùa Pháp Môn ở Kỳ Dương là một trong 19 bảo tháp xá lợi. Năm 574, vua Vũ Đế Bắc Chu xuống chiếu hủy diệt Phật giáo thì xá lợi nơi đây được cất giấu kỹ. Đến năm Hiển Khánh thứ tư (659), vua Đường cho đạo dưới chân tháp, được 8 viên xá lợi. Năm sau, vua cho rước xá lợi vào Đại Nội ở Đông Đô để cúng dường, rồi năm Long Sóc thứ hai (662), rước về lại chùa cũ. Đến năm Nguyên Hòa 14 (819), vua Đường Hiến Tông lại ra lệnh thỉnh xá lợi vào trong cung. Lúc ấy, Hàn Dũ viết "Phật cốt biểu" chỉ trích việc này, ông nói rằng Phật là người Di Địch, không nên đem xương khô của Ngài vào trong cung vua mà nên đem đốt hay vứt xuống nước cho tuyệt tích. Vua nổi giận đày ông đến Triều Châu làm Thứ sử, rồi sai Trương Trọng soạn "Phật cốt bi".

 

d) Tại Nhật Bản: Ở nước này cũng có những hiện tượng do cảm ứng mà được xá lợi, như điều 13 Mẫn Đạt Thiên Hoàng thuộc quyển 20 Sử Nhật Bản chép: Tư Mã Đạt tổ chức trai hội, do lòng chí thành mà cảm được xá lợi, rồi ông đem trình quan Đại thần Tô Ngã Mã Tử, Mã Tử bèn dùng dùi sắt đập thử mà không hư hao gì, ông lại đem vứt xuống nước, xá lợi cũng không chìm.

 

(Còn xá lợi Phật tại Việt Nam, xin hẹn một dịp khác sẽ trình bày).

 

*

 

Giờ đây, cách Phật ra đời hơn 25 thế kỷ, muốn được đảnh lễ, cúng dường xá lợi của Phật không phải là chuyện dễ. Nếu như chúng ta chưa được diễm phúc trực tiếp chiêm ngưỡng, đảnh lễ, cúng dường Sinh thân xá lợi của Phật thì chúng ta cũng nên thành tâm đảnh lễ, cúng dường Pháp thân xá lợi của Phật. Vì công đức đảnh lễ, cúng dường Sinh thân xá lợi Phật chủ yếu phát xuất từ tha lực, còn công đức đảnh lễ, cúng dường Pháp thân xá lợi của Phật thì chủ yếu phát xuất từ tự lực của mỗi chúng ta.

 

(Theo Phật Quang đại từ điển, Đài Bắc, Từ Di chủ biên, Phật Quang Sơn xuất bản, 1989, tr. 3495 và một số tư liệu khác).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3498)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4525)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4579)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7352)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2972)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12221)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4000)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3814)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4230)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3691)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5072)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6695)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4013)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4130)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5346)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3793)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4540)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3562)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3935)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4397)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3848)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3942)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3880)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4832)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4531)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4272)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3845)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4648)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4214)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6120)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4611)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4957)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4197)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4832)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5673)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3656)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4052)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4594)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5289)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3151)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4768)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4564)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4303)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4751)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4499)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4609)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7233)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5217)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5011)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4601)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5621)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5282)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4164)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6024)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4722)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4885)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5495)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5625)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant