Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ba pháp ấn

01 Tháng Mười 201000:00(Xem: 11600)
Ba pháp ấn

BA PHÁP ẤN
Thích Viên Duy dịch Việt

‘‘Pháp Ấn’’ tức ấn chứng, dấu hiệu tiêu biểu, nhận định, đánh giá mọi tiêu chuẩn căn bản của tất cả hiện tượng. Tất cả những sự phân biệt nội ngoại, chân ngụy, chánh tà đều dựa vào ‘‘Pháp Ấn’’ để ấn định những sự phân biệt đó có chính xác hay không. Như những công văn của thế gian, người ta đều lấy dấu ấn để làm nơi tín nhiệm. Trong Phật Giáo, Đức Phật mang giáo nghĩa căn bản của pháp Tứ ĐếThập Nhị Nhân Duyên tóm tắt gom lại thành 3 câu nói, tức ‘‘chư hành vô thường’’, ‘‘chư pháp vô ngã’’, ‘‘Niết Bàn tịch tĩnh’’, được gọi là ‘‘Tam Pháp Ấn’’. Ba câu nói này là dấu hiệu tiêu biểu để phân biệt giữa Phật giáo và các trường phái học thuyết khác, là nguyên cả luận lý cơ bản Phật học, là nguyên lý căn bản bất khả dao động trong Phật Pháp, là định luật đầy đủ tính phổ biến, tính tất nhiên và tính vĩnh hằng.

 1. Chư hành vô thường

‘‘Hành’’, nguyên gốc là nghĩa lưu hành chuyển biến. Đức Phật cho rằng, thế gian vạn vật đều do nhân duyên hòa hợp mà sanh, do vậy thế gian nhất thiết tạo tác mà sản sanh nên hiện tượng, bao gồm luôn tất cả vật chất hiện tượng, hoạt động tâm lý và khái niệm hình thức. Không có một vật nào là không lưu hành biến chuyển, đây gọi đó là "Hữu vi pháp"."Hữu vi pháp" lưu hành biến chuyển, do vậy cũng được gọi là "hành", tức là "chư hành", ý chỉ tất cả thế gian đều do nhân duyên hòa hợp mà sanh, do đó hiên tượng và sự vật thì chuyển lưu biến đổi. "Vô thường" tức là biến hóa. Cho nên những gì gọi là "chư hành vô thường", tức là nói đến tất cả hiện tượng thế gian đều biến hóa vô thường, sự vật trên thế gian không có vĩnh hằng bất biến. Con người mưu tính làm cho nhân duyên sự vật không biến hóa hòa hợp mà sanh, thì hoàn toàn không thể được. Con người ta mong muốn bảo trì nguyện vọng thường hằng bất biến nhưng vì hiện thực biến động không ngừng do vậy phát sanh mâu thuẫn, sự mâu thuẫn đó không giải quyết được tức thì đưa đến thống khổ.

‘‘Vô thường’’ có hai loại: Nhất kỳ vô thườngniệm niệm vô thường. Nhất kỳ vô thường chỉ tất cả sự vật trong một khoảng thời gian nào đó, biến chuyển lưu hành, chung quy hoại diệt, như sanh lão bệnh tử của con người, sanh trụ dị diệt của sự vật, thành trụ hoại không của thế giới, tuy thời gian trải qua có dài ngắn, đều không giống nhau, nhưng đều là biểu hiện của nhất kỳ vô thường. Niệm niệm vô thường, ‘‘niệm’’ từ tiếng Phạn được dịch nghĩa là ‘‘sát na’’, ‘‘niệm niệm’’ tức là sát na sát na. Tất cả sự vật không những có nhất kỳ vô thường, mà còn trong khoảng thời gian nào đó lại có vô thường của sát na sát na sanh trụ dị diệt. Cũng có thể nói, khi trước không hoại diệt, nhưng trong nội bộ nó vẫn sát na sát na chuyển biến không ngừng.

 Vô thường tuy chuyển biến không ngừng, nhưng vô thường vẫn vô thủy vô chung, tương tục không dứt. Như con người chịu sanh lão bệnh tử, nhưng trước khi sanh vẫn có ‘‘thể’’ sanh mạng, sau khi chết lại chuyển hóa làm ‘‘thể’’ sanh mạng khác, tương tục không dứt; sự vật do nhân duyên hòa hợp mà sanh, sau khi nhân duyên ly tán mà diệt, lại chuyển hóa thành sự vật khác; thế giới cũng theo quá trình thành trụ hoại không, xoay tròn trở lại, tuần hoàn bất đoạn. Tóm lại, tất cả sự vật trên thế giới đều là vĩnh viễn sanh diệt biến hóa mà lại vô thủy vô chung.

Đức Phật dùng thuyết chư hành vô thường phá trừ thường kiến của chúng sanh, do vì chúng sanh chấp vào pháp cho rằng thực có mà khởi tham sân si, đủ thứ phiền não, nói rõ nghĩa vô thường đây không sanh tham sân si, phát khởi tâm hướng thượng lìa sanh tử mà cầu giải thoát.

 2. Chư Pháp Vô Ngã

‘‘Pháp’’ chỉ đến tất cả sự vật và tồn tại, ‘‘chư pháp’’ ý chỉ tất cả sự, các loại tồn tại. Những gì giảng về chư hành ở trên không bao gồm ‘‘vô vi pháp’’, nhưng chư pháp lại bao quát ‘‘vô vi pháp’’ bên trong, là hiện tượng và siêu hiện tượng, hữu vi phápvô vi pháp, gọi chung của thử ngạn thế giớibỉ ngạn thế giới. Hàm nghĩa của tiếng Phạn ‘‘ngã’’ mang 3 đặc tính: một là chủ tể tính (độc hữu tính, độc hữu), năng chủ trì tự thân; hai là thực thể tính (đơn độc tính, tự hữu), không dựa nhân tố khác mà tồn tại; ba là cố định tính (bất biến tính, thường hữu), không do biến hóa thời gian không gian mà tiêu thất. Do vậy, ‘‘ngã’’ là thực thể thường hằng bất biến, có đủ công năng tự ngã chủ tể. Lại có thể nói, ‘‘ngã’’ vừa không là tập hợp ly tán, vừa là thực thể không sanh diệt biến hóa, là chủ tể độc lập tự tánh vĩnh hằng bất biến. Những gì gọi là ‘‘chư pháp vô ngã’’, tức nói đến tất cả sự vật và tồn tại đều không có chủ tể hoặc thực thể độc lập bất biến, đều không có khởi trước chủ tể tác dụng ngã hoặc linh hồn. Nói cách khác, trên thế giới không có đơn nhất độc lập, tự ngã tồn tại, tự ngã quyết định sự vật vĩnh hằng, tất cả sự vật đều là nhân duyên hợp thành, tương đối và tạm thời.

Chúng sanh không rõ ‘‘chư pháp vô ngã’’ mà sản sanh ngã chấp, thế rồi sanh tự tha bỉ ngã sai biệt, sanh ái tắng thuận nghịch đủ loại phiền não, lợi ta thì vui, tổn thương ta thì tức, tiến đến tạo vô số nghiệp, có nghiệp ắt chịu thống khổ luân hồi lục đạo sanh tử. Những gì gọi là ‘‘ngã chấp’’ tức ‘‘nhân ngã chấp’’ và ‘‘pháp ngã chấp’’. Nhân ngã chấp, tức chấp trước vào những gì của tôi, gọi ‘‘ngã chấp’’, cũng gọi là ‘‘ngã kiến’’. Pháp ngã chấp, tức chấp vào những gì của pháp (ngoại vật), nên gọI ‘‘pháp chấp’’. Cho nên ‘‘chư pháp vô ngã’’ tức là muốn phá trừ pháp chấpngã chấp của chúng sanh.

Phá ngã chấp, nhấn mạnh con người vô ngã. Con người là tập hợp thể của tinh thần và hình thể, là do sắc thọ tưởng hành thức (ngũ uẩn) hòa hợp mà thành, giả danh là người, hư vọng không thực, bổn vô hữu ngã. Đầu tiên, một uẩn nào ở đâu trong ngũ uẩn cũng đều không thể nói là ‘‘tôi’’ được, đều là ‘‘tôi’’ không thể nắm bắt được, nếu như sắc tức là tôi, vậy thì sẽ không phát sanh thống khổ, thọ tưởng hành thức cũng như vậy, đây gọi là vô ngã tướng. Thứ nữa một uẩn ở đâu của ngũ uẩn cũng không là sở hữu của ‘‘tôi’’, sự tồn tại của ngũ uẩn giống như ngọn lửa đèn cháy, nìẹm niệm sanh diệt, tương tục không cùng, biến hóa vô thường, đây gọi là vô ngã sở (phi ngã sở). Lại nữa, trong ngũ uẩn vẫn không có một bản thể ‘‘tôi’’ như vậy, con người chỉ là tập hợp ngũ uẩn mà thành, căn bản không có ‘‘tôi’’, như gạch gói gỗ đá hòa hợp mà thành nhà cửa, lìa những thứ này ra ắt không có nhà cửa, con ngườingũ uẩn thân tâm giả hợp, nhưng có giả danh, không có cái ‘‘tôi’’ thực sự để đắc, đây gọi vô ngã thể.

Cùng một nguyên lý, những sự vật gì khác của ngoài con người cũng giống như con người, đều là tập hợp thể của các loại nhân tố, mà còn thời thời khắc khắc đều trong biến hóa vô thường, cũng đều không có thực thể độc lập tự tồn (tự tính, tự thể), do vì pháp cũng vô ngã, nên lại muốn phá trừ pháp chấp.

Một số học giả cho rằng thuyết nghiệp báovô ngã luận của Đức Phật thì mâu thuẩn nhau, bởi vậy lý luận của chư pháp vô ngã, phủ định tự ngã thực thểtồn tại của linh hồn, nhưng lại khẳng định tác dụng nghiệp lực chúng sanh, đề xướng luân hồi nghiệp báo, đây khẳng định một cách trá hình về sự tồn tại của linh hồn, đồng thời, trên thực tiển sẽ đưa đến sự mâu thuẫn giữa chính mình gánh chịu trách nhiệm của thuyết nghiệp báo và không phải gánh trách nhiệm của thuyết vô ngã. Thực tế y cứ theo tinh thần của Nguyên thủy Phật giáo, giữa hai quan điểm này vẫn không mâu thuẫn. Nghiệp, thì chỉ đến tất cả vi tác của chúng sanh đều có tác dụng của nó, đã có thứ hành vi tác dụng này tức sẽ sản sanh ra hậu quả, tức sẽ có nghiệp báo. Bởi thế thuyết nghiệp báo là loại quan hệ nhân quả. Thực chất của thuyết vô ngã chỉ đến tồn tại của sự vật là do nhân duyên hòa hợp mà thành, là có điều kiện nên, như sự tồn tại của nhân ngã nương tựa ngũ uẩn hòa hợp, ngũ uẩn giải tán nhân ngã ắt không, nên những gì thuyết vô ngã giảng nói là một loại điều kiện tương quan. Trong khi nhân duyên cấu thành biến hóa, ‘‘nghiệp’’ khởi trước quyết định tác dụng. Nhưng đói với nhân sanh mà nói, từ khi nhân ngã vốn không, vậy tức là không có một cái tinh thần chủ thể thường tồn bất biến như loại linh hồn, cũng tức là không tồn tại một linh hồn bất tử khi thọ báo. Nghiệp của nhân sanh chỉ hình thành một thứ công năng hoặc lực lượng tinh thần, khi chúng tại những nhân duyên điều kiện gì mới sẽ thành nên một nhân tố mà sản sanh ra hậu quả (quả báo). Loại nghiệp lực này và những gì gọi là linh hồn hoặc tự ngã bản thể thì không giống nhau: thứ nhất, nói về phương diện thời gian, nghiệp hoặc nghiệp lực thì sanh tử vô thường, mà linh hồn hoặc tự ngã ắt là thường trụ cố định; thứ hai, nhìn theo này kia (bỉ thử), nghiệp hoặc nghiệp lựcnhân duyên mà khởi, chỉ có lúc nhân duyên hội hợp, mới sẽ chiêu cảm quả báo. Mà linh hồn hoặc tự ngã là một thể, độc lập, có đủ ý nghĩa chủ thể tự ngã; thứ ba, nhìn theo phương thức tồn tại, nghiệp hoặc nghiệp lựcsát na sanh diệt mà lại chuyển hóa vô cùng, bản thân của nó là do hành vi tạo tác của tự thân con người mà có, lại có thể do hành vi tạo tác của tự thân con người mà cải biến, nhấn mạnh tất cả quả báo đều là tự tác tự thọ của con người, chính là do con người không có một linh hồn cố định bất biến hoặc tự ngã chủ tể tự kỷ, cho nên người ta mới có thể tùy theo thời gian chính mình tạo nghiệp mà cải biến vận mạng của chính mình, mà linh hồn hoặc tự ngã thì có một thực thể cố định bất biến, xưa nay như vậy, vĩnh hằng bất biến. Hiện đại Nhật Bản Phật học Đại sư A Bộ Chánh Hùng nói :‘‘Nghiệp trong Phật giáo không phải là luận quyết định, bởi vì trong Phật giáo không có quan niệm về vị thần linh khống chế nghiệp’’; Vô Ninh nói Phật giáo mang nghiệp coi như một loại lực lượng đạo đức, nhấn mạnh qua tự do quyết định của ý chí, sau cùng từ trong luân hồi giải phóng ra khả năng tính. Như những gì nói trước, một phương diện chúng ta bị những cái nghiệp của chính mình trói buộc, đồng thời khi trong vũ trụ những gì nghiệp vận hành thì quan hệ chặt chẻ; nhưng trong một phương diện khác, những gì chúng ta làm chúng sanh thì có đủ tự ngã ý thứctự do ý thức, căn cứ vào tự do hành động của cá nhân mà từ trong những gì nghiệp trói buộc giải phóng ra ngoài cơ hội, loại tự do hành động này lấy nghiệp lực vô thủy vô chung nhằm đối nội tự thân của nó, cũng tức là vận hành tại những gì mà nhận thức thấu triệt của quá trình nghiệp lực trong vũ trụ ngoài phạm vi bản thân nó làm căn bản.’’ (A Bộ Chánh Hùng: <<Thiền và tư tưởng Tây phương>>, Thượng Hải dịch văn xuất bản xã 1989 niên bản trang thứ 249) Do đó, các thứ các loại nghiệp mà chúng sanh tạo ra, là không vô tự tánh và do nhân duyên mà khởi, nó đã không tồn tại trong ý thức vô thường, lại cũng không tồn tại một bộ phận nào của sinh mạng, có thể một lúc thời khắc thích đáng đã đến, y vào hai thứ tinh thần vật chất, tức sẽ hiển hiện ra, trên thực tế nghiệp lấy sắc tâm làm duyên mà sanh đồ vật, là năng lực mà dung khắp sắc tâm. Do vậy những gì nghiệp cho là nghiệp, không thể nào chỉ nhìn thành là sắc hoặc tâm, mà là sắc tâm duyên khởi được thành nên. Cho nên theo lôgíc mà nói, nghiệp lực không theo sự diệt vong của thân tâm cụ thể mà tiêu thất, trước lúc chưa gặp duyên cảm quả, thì vẫn tiếp tục tồn tại. Nhưng nhìn trên hiện thực, không sắc tâm, thì không có gì mà nghiệp lực nương tồn, vô sắc tâm làm duyên, nghiệp lực không từ đó hiện khởi.

Về sau Đại thừa Trung quán học đem thuyết nhân quả nghiệp báo của Nguyên thủy Phật học cho có lẻ là giải thuyết tối vi chính xáccứu cánh. Trung quán học cho rằng bản thân nghiệp lựckhông vô tự tính. Nếu như cho rằng nghiệp lực thực có tự tính, vậy thì đánh mất đi hàm nghĩa của nghiệp dĩ tạo tác làm nghĩa. Những gì nghiệp cho là nghiệp, bất luận thiện hay ác, đều do tạo tác mà thành, không có không tạo tác mà làm thành nghiệp được. Nếu như nghiệp có thực thể tính, vậy thì không thể nói nó từ duyên sanh khởi, mà không cần phải tạo tác, bổn lai vốn có rồi. Vậy chỉ có thể là một loại thực thể, thứ linh hồn. Loại thực thể, linh hồn này là bổn lai vốn có vật cố định bất biến, nó hoàn toàn đã phủ định sự vô thường, pháp duyên khởi của sanh diệt. Nếu như không tạo nghiệp mà đã có nghiệp lực tồn tại, hữu tình không tạo tác lại cũng sẽ có tội nghiệp hoặc thiện đức, nói như thế thì, sự sai biệt làm ác làm thiện cũng không có, điều này tức sẽ phá hoại những sai khác của tất cả hành vi thiện ác xấu tốt thế gian. Chính vậy Trung quán học cho rằng nhân quả không đoạn không thường, nghiệp lực tương tục không mất không hoại, chỉ có trong huyễn hữu từ tính không duyên khởi, mới có thể thiết lập nên được. <<Trung Luận, Phẩm Nghiệp>> nói : ‘‘Tuy không cũng không đoạn, tuy có mà không thường; nghiệp quả báo không mất, là tên gọi những gì Phật thuyết.’’ Nên Ấn Thuận trưởng lão Đại sư trong <<Trung Quán Luận Tụng Giảng Ký>> viết: ‘‘Theo đúng nghĩa Tính Không nói, nghiệp là do duyên khởi hóa, khi nhân duyên hòa hợp, tợ như có hiện tượng nghiệp sanh khởi. Thật sự ra, nghiệp thì không có thực tính đâu, đã không từ nơi nào đến, lại cũng không từ trong vô sanh khởi một tính thực tại. Tất cả các nghiệp vốn tức không sanh, không sanh không phải không có duyên sanh, là nói không có tự tính quyết định của nó, không có tự tính sanh, tất cả các nghiệp cũng vốn xưa nay không diệt, không diệt tức không mất. Những nghiệp tướng sanh diệtchúng ta thấy được, là sự khởi diệt của hiện tượng nhân quả, không phải có một nghiệp ở nơi khởi diệt của tính thực tại. Không có nghiệp tính sanh diệt của thực tại, chỉ có như huyễn như hóa nghiệp tướng, theo sự hòa hợp ly tán của nhân duyên mà huyễn khởi huyễn diệt. Như huyễn sanh diệt, không thể nào truy cầu tự tính của nó, cũng không là thường tại của thực có, là huyễn tại của mối quan hệ nhân duyên. Huyễn dụng là chẳng phải không, cái này như nghiệp dụng huyễn, tại trước lúc cảm quả không mất, sau khi cảm quả, như nghiệp dụng huyễn diệt, mà không thể nào nói một pháp thực tại nào đó tiêu thất, do đó nói: ‘diệt không chổ đến’. Các nghiệp không sanh, vô định tính không, tuy không vô tự tính, nhưng duyên khởi nghiệp, tại trăm nghìn kiếp không mất, do vậy cũng không đoạn. Không phải thật có thường trụ nên không đoạn, mà là vô tính từ duyên nên không đoạn. Hành nghiệp không thất diệt, có thể kiến lập như huyễn duyên khởi nghiệp quả liên hệ.’’ Giải thích như vậy, thì tương khế với Phật pháp, thì đối với thuyết nghiệp lực của Phật học vừa chính xác mà lại có lực thuyết minh.

Ngoài ra, theo như sự giải thích của Đức Phật, trạng thái luân hồi nghiệp báo thực tế là kết quả của người ‘‘vô minh’’ : thế giới vốn vô thường, nhưng người ta cho rằng hoặc tưởng bảo nó hữu thường; thế giới vốn vô ngã, nhưng con người cho rằng hữu ngã; người tà vốn do ngũ uẩn hợp thành, không có tự ngã vĩnh hằng, nhưng người ta cho rằng hữu ngã, có một ngã linh hồn. Như thế mới rơi vào sanh tử luân hồi, nếu chặt dứt ‘‘vô minh’’, ắt sẽ tự thoát ly trạng thái luân hồi. Do vậy, những gì là trạng thái luân hồi nghiệp báo, nghiêm khắc mà nói thì không có thực, nó chẳng qua là sản vật của vô minh. Từ trên ý nghĩa trên đây mà bàn, thì loại trạng thái này không chân không thực, bởi thế là ‘‘không’’, là ‘‘vô ngã’’ vậy.

Do vậy có thể thấy, thuyết vô ngã của Nguyên thủy Phật giáothuyết nghiệp báo không những không mâu thuẫn, mà giữa hai điều đó còn là tương ưng trên thực tế, không có sự mâu thuẫn giữa chính mình chịu trách nhiệm của thuyết nghiệp báo với thuyết vô ngã chính mình không gánh trách nhiệm, điều này dẫn đến sự chú ý đặc biệt của người nghiên cứu.

 3. Niết Bàn Tịch Tĩnh

Những gì gọi là Niết Bàn, là dịch âm chử Phạn, diệt độ, tịch diệt, giải thoát, vô vi, bất sanh, an lạc, viên tịch v.v..., nghĩa gốc nó là quạt diệt, thanh lương, bình đẳng, ý đó dịch nhiều làm suy ra nghĩa, từ mục đích mà nói có thể gọi là giải thoát, an lạc, từ phương pháp mà nhìn là diệt, diệt độ, tịch diệt, từ cảnh giới mà nói thì là vô vi, bất sanh, viên tịch (tham khảo Vương Hải Lâm: <<Tam thiên đại thiên thế giới - quan hệ đối thoại về luận Phật giáo vũ trụ>>, nhà xuất bản Kim nhật Trung quốc năm 1992 trang 161). Tịch tĩnh tức trạng thái pháp tướng của cảnh giới Niết bàn. Niết bàn không phải những gì pháp nhân duyên thế gian sanh, cũng là cảnh giới xuất thế gian vô vi pháp (tịch diệt pháp) bất sanh bất diệt. Chỉ có diệt tuyệt tất cả phiền não, biết hết sanh tử cảm nghiệp, thoát ly các khổ luân hồi tam giới, mới có thể chứng ngộ vô vi phápđạt đến diệu cảnh Niết bàn giải thoát, tức những gì ‘‘diệt, tận, ly, diệu’’ mà Phật giáo nói trước đây. Nguyên thủy Phật giáo đói với lý giải Niết bàn chủ yếu chỉ đến sự tu hành đạt đến cảnh giới giải thoát tối cao của luân lýtâm lý, tức là không còn sanh lão bệnh tử, mà đạt đến khoái lạc không gì sánh bằng, diệt trừ xong tham sân si, dứt tận phiền não nhiễm trược mà đi đến vô thượng giải thoát. Trong <<Kinh A Hàm>> thường dùng ‘‘tịch tĩnh cùng cực’’, ‘‘cứu cánh thanh lương’’, ‘‘cực kỳ an lạc’’ v.v... để miêu tả Niết bàn. Do vậy Niết bàn không phải tử vong, mà là khoái lạc, là giải thoát vô thượng, là Phật giáo cảnh giới tối viên mãn.

Niết bàn tịch tĩnh là chung cực của Tam Pháp Ấn, một Pháp ấn không giống hai cái trước, là dùng để khẳng định hình thức biểu đạt. Đức Phật đề xuất chư hành vô thườngchư pháp vô ngã, nhưng rốt sau muốn làm chứng cho cảnh Niết bàn tịch tĩnh. Do vì tất cả vạn vật nhân duyên hòa hợp đều là vô thường, chúnh sanh thì sẽ sản sanh khổ chán đời, lại nói thêm một bước nhận thức đến tất cả sự vật đều là vô ngã, thì tất nhiên sẽ không có gì mà y chỉ, quy kết tại Niết bàn tịch diệt. Cũng có thể nói là đoạn vô minh, tức phiền não, siêu sanh tử, không vì những cái cảm thọ trong ngoài mà động, thì có thể đắc được an lạc tịch tĩnh triệt để, đạt đến Niết bàn.

Nhìn trên khía cạnh triết học, chư hành vô thường, chư pháp vô ngã là thuyết hiện tượng giới, Niết bàn tịch tĩnh là thuyết đứng nơi bổn thể giới, bổn thể và hiện tượng thật sự không thể phân cắt hai phương diện, Niết bàn tịch tĩnh coi như cảnh giới cực cùng lý tưởng của Phật giáo, thế giới bỉ ngạn thì đói xã hội hiện thực nhiễm ô, phủ định thế giới thử ngạn, là thông qua phủ định hiện thực mà khẳng định lý tưởng, thông qua phủ định ‘‘thường’’ và ‘‘ngã’’ của thế gian mà khẳng định ‘‘thường’’ (vĩnh hằng vô thường) và ‘‘ngã’’ (chơn ngã) của xuất thế gian. Niết bàn tịch tĩnhlý tưởng cực cùng của Phật giáo, nó biểu hiện lên Đức Phật đối với sự quan tâm cùng cực của vận mạng nhân loại. Con người một lúc thông qua Phật pháp tu hành đạt đến cảnh giới lý tưởng này, sanh mạng bèn từ hữu hạn, tương đối và một mặt tầng cá biệt, đề thăng đến vô hạn, tuyệt đói và mặt tầng phổ biến, nhân sanh liền từ nhiễm tạp, thống khổ và tầng thứ xấu ác, thăng tiến đến thanh tịnh, an lạc và tầng thứ viên mãn hoàn mỹ.

Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế; biết vô ngã vô thường mà phấn khởi tu hành tức là Đạo đế.

Thích Viên Duy dịch

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12653)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12269)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11049)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10922)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13375)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11798)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13684)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11919)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11185)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12214)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12415)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20609)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12442)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12468)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11731)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11609)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22445)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13587)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29713)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16767)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12019)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16859)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12085)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17939)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12656)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13185)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14776)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22645)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10597)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14071)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13882)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13736)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13881)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13954)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14844)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13868)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18430)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22816)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15409)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17337)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14278)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12596)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11181)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13221)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13118)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18812)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17196)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13533)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12933)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14711)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14668)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15888)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13531)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27451)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13258)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16739)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21405)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant