Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cái Đẹp Theo Tinh Thần Phật Học

10 Tháng Mười 201000:00(Xem: 10799)
Cái Đẹp Theo Tinh Thần Phật Học

Đẹp – tiếng gọi muôn thuở của con người, Đẹp là gì? Làm thế nào để kiến tạo một cuộc sống Đẹp? Có thể nói, không hướng đến cái Đẹp nhân loại không có sự phát triển, không có nền văn minh. Nhưng trong lúc đi tìm cách giải đáp cho câu hỏi ấy đã có những cuộc nhấn chìm sinh mạng cái Đẹp.

Theo dòng chảy triết họ Đông – Tây: thời tiền Socrate, con người bị lãng quên, triết học đi tìm bản thể vũ trụ mang tính thiên nhiên hơn, đến khi Socrate đặt phạm trù cái đẹp thì ông lại nhầm với cái lợi. Quả thật, nếu gặp phải Dương Chu, há ông đã được một cái Đẹp vô cùng lớn – cả thiên hạ; nhưng Dương Chu đã khẳn khái từ chối: "bạt nhất mao dĩ lợi thiên hạ, ngã bất vi." Dẫu sao môn đệ nổi tiếng của ông là Platon, cũng đã phủ định ông từ thuở ấy, với câu hỏi hóc búa: "Thưa Thầy! Cái sọt phân cũng là cái đẹp." Socrate đành ngẩn ngơ. Nhưng cái sọt phân cũng Đẹp đấy! Nếu ông ta không nhìn bằng hữu ngã lưỡng biên mà thấy "bản lai thường tự tịch diệt tướng" và "thị pháp trú pháp vị" thì chắc chắn ông không ngẩn ngơ như thế. Đến Platon, triết học rẽ sang một hướng khác, Platon bất lực trước "dịch biến" của Héraclite và hiểu nhầm "hữu thể" của Parmenide thì thế giới lý niệm của Platon xuất hiện. Bây giờ mọi hiện hữu dưới mắt Platon chỉ là một ảo ảnh của thế giới lý niệm ấy. Một Thượng đế hiện hữu trong triết học. Cả trường kỳ nhà thờ trung cổ, Chúa nắm quyền kiểm soát con người. Ngay cả Aristote, Descarte, Kant, Hegel thì cũng là một thứ triết học bị phóng thể: thay vì họ giúp con người suy nghĩ chính mình thì lại khuyến khích quên mình mà lại đi tìm lẽ huyền vi của tạo hóa. Phải đến Marx, con người mới có chỗ đứng, rất tiếc là chỉ đứng cho xã hội mà quên chỗ đứng chính mình. Và, nếu xã hội cọng sản xuất hiện thì là bước đường cùng của nhân loại khi luật hủy thể của ông được áp dụng một cách triệt để. Sau khi Kiekegaard cảnh tỉnh cái thôi làm người của triết thuyết, tôn giáo; cũng như Nietzsche giết chết Thượng đế để kéo con người xuống lại trần gian; và tiếp nối trường phái Hiện sinh xuất hiện thì con người mới có chỗ đứng cho chính mình. Rất tiếc họ đặt con người đứng trong chán chường với kẻ lạ mặt trong thế giới buồn nôn của cõi người ta . để rồi khi giao cho họ tự quyết định thân phận của mình, thì con người lại tìm phương thức tự tử hơn là tìm lại chính mình, chủ nghĩa cá nhân độc đoán ra đời. Ở phương Đông, nền triết học được xem là hướng nội, nhưng Bà-la-môn giáo đưa con người vào cơn ngủ say và triệt tiêu ý thức-ý thức cái để làm người lại bị chối bỏ; làm sao còn là người! Và đạo Lão thì mơ màng cùng hồ điệp trong lẽ sống tự nhiên. Thế nhưng:

"Lưu thủy há sơn vô hữu ý
Bạch vân xuất tụ bổn vô tâm."
(Trần thái Tông)

Con người không thể vô tâm theo kiểu mây nước. Cuối cùng đạo Lão đành lánh đời để tìm cuộc sống bất tử trong chốn bồng lai tiên cảnh. Tất cả đều bất thành.

Khi chưa có cái nhìn đúng về con người trên cơ sở Người thì không thể kiến tạo một cuộc sống Đẹp mang tính Người.


Trở lại Phật giáo, đạo Phật xây dựng một cuộc sống đẹp ngay trong chính con người và trên cõi đời này. Con người là đối tượng trung tâm của hệ thống giáo lý này. Đức Phật đã khuyến khích chúng ta "Hãy tự mình thắp đuốc mà đi, hãy nương tựa vào chính mình, vì Như lai chỉ là người dẫn đường." (kinh Niết-bàn). Đức Phật cũng dạy rất rõ là không thể tìm cảnh giới Niết-bàn (cuộc sống đẹp) bên ngoài con ngườicõi người.


"Này hiền giả, ta tuyên bố rằng tại chỗ nào không bị sanh, không bị già, không bị chết, không có từ bỏ đời này, không khởi lên đời khác thời không thể đi đến để thấy, để biết, để đạt đến chỗ tận cùng của thế giới. Nhưng này hiền giả, trong cái thân dài mấy tấc này, với những tưởng, những tư duy của nó, ta tuyên bố về thế giới, tập khởi của thế giới, thế giới đoạn diệtcon đường đưa đến thế giới đoạn diệt." (Thích Minh Châu dịch, Tăng chi I)


Thế giới đoạn diệt ở đây, hiểu như là sự đoạn tận toàn bộ khổ đau; Niết-bàn. Như vậy, Niết-bàn không ở đâu xa mà ngay trong con ngườithế giới người. Câu chuyện con chồn hoang trong công án của ngài bách Trượng là một cảnh tỉnh cho ai tìm Niết-bàn bên ngoài cuộc đời này.


Đồng thời giáo lý duyên khởi cho ta cái nhìn đúng về con ngườixã hội của nó. Tất cả quan hệ trong mối tương quan duyên khởi, không đẳng lập và cũng không đồng nhất mà là biện chứng trong thống nhất. Với nguyên lý:

"Cái này có, cái kia có
cái này không, cái kia không
cái này sanh, cái kia sanh
cái này diệt, cái kia diệt."
(Thích Minh Châu dịch, Trung bộ I)

Đó là cái nhìn về con người. Và khi hệ thống này cho ta hiểu chữ Buddha: Giác với ba nghĩa: tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, thì con người càng tăng thêm giá trị của mình. Tinh yếu của Phật giáo ở trong chữ Giác này.

Giáo lý duyên khởi được trình bày không nhằm lý giải vũ trụ quan cũng như nhận thức luận, mà nó cung cấp một cái nhìn vô ngã – không tự tánhkhông tánh trong mọi hiện hữu, mọi hiện tượng giới. Từ đây kiến tạo con đường giải thoát, an lạcxây dựng cuộc sống Đẹp, Niết-bàn. Niết-bàn là cứu cánh tối hậu của thế giới quan Phật giáo. Đó là cái Đẹp nhìn từ góc độ thẩm mỹ. Nhưng phải khẳng định từ đầu Niết-bàn không phải là nơi chốn, do vậy, những từ nhập Niết-bàn hay cõi Niết-bàn nếu không hiểu thì dễ gây ngộ nhận. Vì Niết-bàn chẳng từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu (vô sở tùng lai diệc vô sở khứ – kinh Kim Cang).


Cái Đẹp thể hiện trong tư tưởng Phật học như thế nào? Chúng ta thử tìm hiểu hai phạm trù: Diệt đếĐạo đế.

DIỆT ĐẾ: CÁI ĐẸP

Diệt đế: dịch nghĩa từ nguyên chữ: Nirbbana; dịch âm: Niết-bàn. Vậy Niết-bàn là gì? Hay hỏi cách khác Đẹp theo Phật học là gì? Một câu hỏi ra vẻ đơn giản và khá tự nhiên, nhưng càng trả lời nhiều thì càng nhiều rắc rối. Vì rằng, Niết-bàn đơn giản, chúng ta chưa có kinh nghiệm này. Câu chuyện ngụ ngôn Rùa và Cá vẫn là một minh họa sống động cho kết luận này. Làm sao cá hiểu nổi khái niệm đất liền là gì! Dù rùa có dùng hữu ngôn hay vô ngôn thì cá cũng đành chịu thôi! Chúng ta, cũng vậy, không thể nào hiểu Niết-bàn là gì khi chưa thật chứng Niết-bàn. Ngôn ngữ không phải bất lực trong diễn đạt mà do chúng ta chưa có kinh nghiệm Niết-bàn, thì dù diễn đạt bằng phương tiện nào cũng chỉ là một ảo giác về nó. Câu chuyện Rùa và Cá cốt để cảnh tỉnh cho những ai đi tìm chân lý trên bình diện ngôn ngữ chứ không nói đến cái bất lực trong cung cách diễn đạt của ngôn từtác dụng của ngôn từdiễn đạt. Đó là cái dụng chứ không phải bản thể, cái thể của ngôn ngữ cũng thường tự tịch diệt tướng; thường vắng lặng.

Trên đại thể, nếu không muốn nói "Pháp nhĩ như thị" thì chúng ta vẫn có quyền giả lập Niết-bàn trên bình diện ngôn ngữ qua tương quan với khổ. Như vậy Niết-bàn là sự chấm dứt khổ; điều này quá rõ ràng trong các kinh. Nói theo Mỹ học là sự giải phóng triệt để cái bi. Niềm vui của sự chấm dứt khổ này mà kinh điển đã không ngớt thốt lên rằng: đó là hạnh phúc tối thượng và rằng bước đi hướng về mục đích ấy điều có niềm vui không bao giờ giảm:

"Vui thay, chúng ta sống
Không bệnh, giữa ốm đau
Giữa những người bệnh hoạn
Ta sống không ốm đau."
(Thích Minh Châu dịch, kinh Pháp Cú, câu 198}

Cái Đẹp theo Mỹ học được xác lập trên cơ chế thăng bằng nội tại, hài hòa, một thể thống nhất giữa hình thức với nội dung thì Niết-bàn là sự thể hiện hài hòa giữa nhận thức của chúng ta với quy luật, giữa hành vi sống với nguyên tắc sống, giữa cảm thọ với những đối tượng cảm thọ. Nếu cái bi theo Phật học là sự tha hóa bởi tham dục, vô minh thì cái Đẹp là sự đổ vỡ toàn bộ thiết kiến của vô minhtham dục. Như thế, Đẹp trong Phật họcsự giải thoát mọi ràng buộc, chấp thủ về ngã và ngã sở:

"Không sở hữu, chấp trước
Ta nói người, Niết-bàn."
(kinh Lăng Già. Trích Phật học khái luận T.C.T.)

Không còn tham dục khát ái:
"Do đoạn tận khát ái
Được gọi là Niết-bàn."
(sđd)

Là sự giác ngộ, thấy như thật, sự đổ vỡ của vô minh:
"Này Mahamati, Niết-bàn là thấy như thật."
(sđd)

Nói tóm lại Đẹp là sự vắng mặt của tham, sân, si, sự đổ vỡ của thế giới hữu ngã. Tất cả những gì gây nên đau khổ, khi chúng bị đoạn trừ là Niết-bàn, là Đẹp. Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến theo lộ trình ấy cho đến lúc viên mãn. Niết-bàn, như vậy là giác ngộ, giải thoát khỏi những cùm xích của ngã và ngã sở. Đó là cái Đẹp. Một cái Đẹp như vậy thường được tán thán với những ngôn từ diễm lệ:

"Một hoa sen bừng nở trong biển trí, không chút bợn phiền não, như vầng nhật nguyệt đánh bạt hết bóng vọng tưởng, như vầng trăng dập tắc lửa tội lỗi nung đốt người đời."


(Mã Minh, Phật sở hành tán, trích Thiền luận I, Trúc Thiên dịch)


Như thế cái Đẹp rực sáng trong nhân cách, trong nhận thức bằng sự phủ định tất cả những gì gây nên khổ đau. Tuy nhiên, những nghĩa trên về cái Đẹp chỉ cho ta khái niệm cái Đẹp trong tư cách tiêu cực. Chúng ta sẽ tìm hiểu thêm giá trị tích cực của nó được thể hiện trong tư tưởng Đại Thừa.


Vô minh là nguồn khổ. Chính vô minh tạo nên ảo giác về ngã rồi chấp thủ vào nó; dù chấp thủ vào Niết-bàn, Phật, thì vẫn là chấp thủ. Còn ý niệm trước tướng vào một cái gì thì vẫn bị trói buộc bởi ý niệm đó; còn bị vô minh chi phối. Do vậy, Niết-bàn ở đây được thể hiện trong tinh thần vô đắc, vô sở đắc.

"Vô hữu Niết-bàn Phật
vô hữu Phật Niết-bàn
Viễn ly giác sở giác
Thị nhị tất câu ly."
(kinh Lăng Già)

Bỏ cho đến không có cái để bỏ, để đạt đến cái giữ tất cả mà không giữ một cái gì. Do đó trú ở tất cả mọi chốn mà không trú ở chỗ nào là Niết-bàn (Vô trú xứ Niết-bàn). Với vô chấp, vô trú, vô trước tướng thì ở đâu cũng an nhiên tự tại, ở đâu cũng là đạo tràng thanh tịnh; cao lâu tửu điếm giai vi thanh tịnh đạo tràng. Từ đó cho thấy một tư tưởng vô cùng siêu phóng của Phật giáo. Đó là: sanh tử tức Niết-bàn, phiền não tức Bồ-đề. Niết-bàn như thế là sự siêu việt lên mọi vọng tưởng lưỡng biên để thành tựu tuệ giác Bát nhã. Bằng cái nhìn này thì thấy mọi hiện hữu đúng như nó đang là; chư pháp thật tướng. Bây giờ tất cả mọi hiện tượng đúng nguyên hình của nó. Nó như thế; như thị:

"Như thị tánh, như thị tướng, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị đẳng mạt cứu cánh." (kinh Pháp Hoa)


Đẹp; Niết-bàn được định nghĩa qua sự vắng mặt những khái niệm: ly dục, ly tham, vô trước tướng, vô chấp ... như trên không có nghĩa là trạng thái hư vô của những người chủ trương hư vô chủ nghĩa. Nhưng, nếu những gì do vọng tưởng, tham dục tạo nên sự trói buộc trong đau khổ thì vắng mặt chúng là thoát khỏi sự trói buộc bức xúc và sự quấy nhiễu của nó. Nói cách khác là tham-sân-si không còn là đối tượng; "ba đào vô nộ tái không châu." (Nguyễn Công Trứ). Để đạt đến trình độ này, rõ ràng phải có một bản lĩnh tự nội vững chãi. Bản lĩnh ấy là một quá trình tự vượt thắng, một kỳ công của chiến tích loại trừ khổ đau; cái bi. Đây là cuộc chiến đấu không để lại dấu vết thành-bại, được-mất; chiến thắng chính bản thân mình. Một cuộc chiến đấu gay go gấp vạn lần ngoài bãi chiến trường. Lẽ thường chúng ta dễ dung túng mình, dễ tha hóa mình hơn là vượt thắng chính mình. Do vậy, tự chiến thắng mình là một chiến công được ca ngợi, được xứng tụng:

"Dầu tại bãi chiến trường
Thắng ngàn ngàn quân địch
Tự thắng mình, tốt hơn
Thật chiến thắng tối thượng."
(Thích Minh Châu dịch, Pháp cú kinh, câu 103)

Nếu mỗi người trong chúng ta biết tự chiến thắng mình thì xã hội sẽ trở nên hạnh phúc. Chiến thắng mình là chiến thắng của vô ngã. Chiến thắng kẻ khác là chiến thắng của hữu ngã. Chiến thắng của vô ngã sẽ đem lại sự tự tại, giải thoát, an lạc. Thực tại này thường được thể hiện qua các từ ngữ chân thường; là siêu việt khái niệm thường và vô thường, chân lạc; là siêu việt cả khổ lẫn vui, chân ngã; là siêu việt cả ngã lẫn vô ngã, chân tịnh; là siêu việt cả nhiễm lẫn tịnh và nó còn mang nhiều tên gọi khác nhau tùy theo phương diện hoạt động: Boddhi: Giác; chỉ vào sự xả trừ vô minh, Niết-bàn; chỉ cho sự vắng bặt những nhiễu động của phiền não, tịch tịnh; chỉ cho sự đoạn trừ tham dục, không; nghiêng về phần nhận thức hơn và trong nghĩa khác là con đường giải thoát.

Con đường giải thoátcon đường đi đến Niết-bàn. Nói theo Mỹ học là con đường đi đến cái Đẹp. Dây là phạm trù thứ tư trong Tứ Thánh Đế.

ĐẠO ĐẾ: CON ĐƯỜNG THỂ HIỆN CÁI ĐẸP

Đạo là con đường thể hiện, là cách thể hiện. Cần phải xác lập rằng: là cách chứ không phải nhân trong khái niệm nhân quả. Do vậy, Đạo đế không phải là nhân để có quả Diệt đế. Ở tầng nghĩa thứ nhất Đạo là phương thức chuyển hóa, chuyển hóa từ khổ đau đến an lạc; chuyển hóa từ cái Bi sang cái Đẹp. Và tầng cao hơn, là lối sống như vậy không thể nào khác được. Sống đúng như thế là Đẹp, là giải thoát, là Niết-bàn. Trong nghĩa này khái niệm nhân quả trở nên lạc lõng và vô ngã không phải là Niết-bàn mà là con đường thi thiết. Vẫn biết rằng không vô ngã thì không thể có Niết-bàn và đã niết-bàn thì vô ngã. Thuật ngữ Đạo, chúng ta thường nghe tám vạn bốn ngàn pháp môn, là con số biểu trưng cho những ngõ đường bị diệt căn cơ của từng đối tượng trên lộ trình Niết-bàn. Tất cả những thi thiết cho sự giải phóng khổ đau, cho cái bi nội tại. Tuy ngõ đường có đa thù nhưng đều lập cứ trên vô ngã. Bước đầu giải phóng ngã bằng tuệ quán vô thường. Nhìn mọi hiện hữu bềnh bồng trên sinh-diệt, có-không, thay đổi từng giay phút:

"Hãy nhìn như bọt nước
Hãy nhìn như cảnh huyễn
Quán nhìn đời như vậy
Thần chết không bắt gặp."
(Thích Minh Châu, Pháp cú kinh 170)

Hay như ngài Vạn Hạnh thiền sư đã "Thị đệ tử" bằng thi kệ:

"Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô."

Với cái nhìn như vậy đưa chúng ta vào nhận thức sâu lắng hơn; rõ ràng hơn về hiện hữu: Tuệ quán vô ngã:
"Tất cả pháp vô ngã
Với tuệ quán như vậy
Đau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh."
(Thich Minh Châu, kinh pháp cú 279)
 
Bằng tuệ quán vô ngã, nhìn thấy thực tại rỗng tếch trong dòng hiện hữu và biết rằng những mộng ảo của vinh hoa phú quý chỉ là vô nghĩa trước ngày mai. Do vậy, ý niệm ngã và ngã sở không còn chân đứng thì chấp thủ cái ta và cái của ta cũng không còn:
 
Hoàn toàn với danh sắc
Không chấp ta, của ta
Không chấp không sầu não
Thật xứng danh Tỉ kheo."
(sđd)
Và sự đoạn trừ khát ái, tham dụccon đường đưa đến an lạc:

Ai sống trong đời này
Ái dục được đoạn trừ
Sầu não khỏi người ấy
Như giọt nước lá sen."
(sđd)

Như giọt nước lá sen, một hiện hữu rực sáng bởi sự trơn tuột tất cả những vọng tưởng điên đảo, dục vọng si mê. Những con đường Đạo nhắm mục đích đánh đổi si mê lầm lạc, tham dục vô lý ấy được gói trọn trong Giới-Định-Tuệ. Đó là thế chân vạc; tương tác biện chứng trên lộ trình ấy. Giới là nguyên tắc sống. Định là sự kiểm soát cảm thọ. Tuệ là cái nhìn đúng như thật vào thực tại đang là: vô thường; vô ngã. Giới-Định-Tuệ như thế là sự hòa điệu; hòa điệu giữa nhận thức chủ quan với thế giới khách quan (tuệ); giữa hành vi với cuộc sống (giới); giữa nhận thức với cảm thọ và cả ý chí (định). Con đường Giới-Định-Tuệ là con đường Trung đạo, vượt lên trên mọi khái niệm bằng phủ định Nhất thiết pháp không; vô ngã, thiết kiến trên giả danh thành tựu ở Không tánh và phê bình Không tánh là hủy diệt bằng vô tự tánh xây dựng trên giả danh thành tựuTrung đạo đệ nhất nghĩa. Trung đạovận hành trên cơ chế thăng bằng, không thiên lệch. Thiên lệch là rơi vào biên kiến, bên này là thường, bên kia là đoạn. Còn thường đoạn là còn hạn hữu trong sanh tử, có không. Nói theo Mỹ học là còn bị tha hóa. Con đường Trung đạocon đường hủy diệt biên kiến đó; nó hủy luôn cả khái niệm Trung đạo:

"Đại Thánh thuyết không pháp
Dĩ ly chư kiến cố
Nhược phục kiến hữu không
Chư Phật bất năng hóa."
(Trung quán luận, Long Thọ)

Giá trị của chữ Không này nó như ngọn lửa hủy diệt tất cả những gì trên đường đi của nó; và khi không còn gì để hủy diệt thì nó cũng không còn cơ sở để tồn tại. Trở về bản thể uyên nguyên của nó. Nó là gì? Nói như ngài Đức Sơn thì trả lời sai bị ba mươi hèo, mà đúng cũng bị ba chục hèo. Ai đủ sức lấy được cây gậy trong tay của ngài Đức Sơn thì hãy trả lời; nhưng lấy được cũng bị ba chục hèo, mà lấy không được cũng bị ba chục hèo. Làm sao đây? Còn nói như Lăng Già kinh thì:

Tri nhân pháp vô ngã
Phiền não cập dĩ diệm
Thường thanh tịnh vô tướng
Nhi hưng đại bi tâm."
Trúc Thiên dịch:

"Khi quán tưởng pháp thân bằng trí và bi, người ta sẽ thấy tất cả bản lai thanh tịnh, vô nhiễm (vô tướng); không tự tánh (vô ngã); trong không có thế giới chủ quan (nhân) gây phiền não chướng, ngoài không có thế giới khách quan (pháp) gây sở tri chướng (nhĩ diệm)" (Thiền luận I)

Như vậy, thiết kiến vô thường, vô ngã là thiết kiến nhằm trả lại đúng vị trí cho con người, đưa con người vượt qua đau khổ để hưởng hạnh phúc tối thượng - Niết-bàn. Nói theo Mỹ học là giải phóng triệt để cái bi để trở về cái Đẹp. Một điều chúng ta cần lưu ý trong hệ thống này đòi ý thức tự nguyện, tự giác cao độ từ ngay bước khởi đầu. Ý nghĩa cứu độ trong Phật giáo chỉ có giá trị như là bản thiết kế của thầy mà học trò phải tự mình thi thiết.


Con đường vô ngãcon đường hủy diệt cái bi để kiến tạo cái Đẹp. Thế nhưng đã lắm người cả Đông lẫn Tây, Cổ cũng như Kim khi gặp phải giáo lý vô ngã này; và nhất là khi nó từ chối trả lời những câu hỏi mang tính siêu hình: hữu, vô, phi hữu phi vô, diệc hữu diệc vô; cũng như những lời dạy về khổ và con đường thoát khổ thì lâm vào ngộ nhận; cho rằng Phật giáo bi quan yếm thế, hư vô chủ nghĩa. Đặc biệt những ai tìm chân lý trên ngôn từ thì họ gặp phải những tuyên bố sấm sét làm nổ tung toàn bộ kiến thiết của ngôn từ: "từ lúc thành đạo đến nay ta chưa từng nói một lời." (kinh Niết-bàn) hay "bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền."; "dĩ tâm truyền tâm." ... thì ngộ nhận càng lún sâu vào vùng chỉ trích. Quả thật, những ai tư duy bằng hữu ngã, duy lý tìm một định nghĩa trên hệ thống này đều bất lực, bất thành. Vì rằng " tôn giáo khước từ mọi định nghĩa, vì định nghĩa là đặt hạn giới cho sự thăng hoa nguồn sống đạo." (Tuệ Sỹ dịch-Thiền luận II). Cho đến những câu hỏi đặt trọng tâm vào cốt tủy của hệ thống này thì được đón nhận với thái độ im lặng. Dù có hỏi thế nào là vô ngã. Sau này chư Tổ sưtrả lời nhưng các ngài trả lời một cách phi lý chẳng ăn nhằm vào đâu; nhưng có điều, cách trả lời ấy lại là một hấp lực tuyệt vời cho những ai thiết tha làm Người. Nếu hỏi thế nào là Phật, câu trả lời là:

"Búp măng trên đá cao ba trượng
Cái chuổi lông rùa nặng mấy cân."

Hay một vị Tổ Việt Nam, ngài Tử Dung trả lời:

"lung linh nước chảy qua đèo
Ngựa đua dưới nước thuyền chèo trên non."

Khi ngài Liễu Quán hỏi:

"Xưa nay Phật Tổ truyền trao
Rằng hay Phật Tổ truyền trao vật gì?"

Những lý thuyết hoa mỹgiá trịnếu không thực hành:

"Như bông hoa tươi đẹp
Có sắc nhưng không hương
Cũng vậy lời nói khéo
Không làm sao kết quả."
(Thích Minh Châu, Pháp Cú kinh. 51)

Đặc biệt trong kinh Kim Cang, đức Phật chỉ thẳng hạng người đó là tà đạo. Vì họ chỉ tìm lý thuyết, khái niệm:

"Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thinh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như lai."

Chúng ta hãy nghe nhà triết học hiện sinh Karl-Jaspers tâm sự:

"Muốn tham dự vào chân lý của đức Phật, chúng ta phải từ bỏ mọi hiện thể của mình. Sự khác biệt này không nằm trong những lập trường thời lý mà nằm trong toàn bộ quan niệm về đời sống và cách thức suy tưởng."(trích lại tư tưởng Vạn Hạnh)


Thiết kiến của ngôn từ lắm lúc cũng đành bất lực trong luận lý. Ngôn ngữ làm sao trả lời nổi những nghịch kiến: từ "tất cả dân đảo Crète đều nói láo." của Epimenide sống ở Crète, thế kỷ VII B.C, đến "mũi tên tung bay mà không di chuyển." của Zenon d’Elee và chàng thanh niên nào đó "bị treo cổ mà vẫn sống." của Brouwer, hay "nhất thiết pháp không." của Bồ tát Long Thọ. Bạn làm sao chia hết một cho ba bằng số học; một dãy dài bất tận 0,333... Thế nhưng, đứa bé chưa từng học toán nó có thể chia một cái bánh thành ba phần bằng nhau. Cũng thế, giáo lý Phật giáo là đến để mà thực hành, thực nghiệm mới thấy giá trị thiết thực của nó:

"Như bông hoa tươi đẹp
Có sắc lại thêm hương
Cũng vậy lời khéo nói
Có làm có kết quả."
(Thích Minh Châu, Pháp cú kinh. 52)

Quả thật:

"Có gì trong một cái tên đâu
Cái mà ta gọi đó là hoa hồng
Cho dù có gọi tên nào nữa
Vẫn tỏa mùi hương ngát dịu lòng."
(dịch từ, Ruhula, Buddha and His Teaching)

Tất cả những gì được đề cập trong hệ thống này, mục đích là nhằm kiến tạo con đường đưa đến cuộc sống hạnh phúc, là nhắm vào thực trạng chúng ta đang hứng chịu để đoạn trừ nó. Tất cả những gì Phật dạy là kinh mà kinh là phương tiện, không phải là cứu cánh; "Nhất thiết tu-đa-la giáo như tu nguyệt chỉ." (Tất cả những lời Phật dạy như ngón tay chỉ mặt trăngkinh Lăng Nghiêm.) Đừng mãi mê theo ngón tay rồi không thấy mặt trăng. Và khi đã thấy mặt trăng thì hãy quên ngón tay đi; vì "vì chánh pháp còn bỏ huống chi là phi pháp." (kinh Xà Dụ). Do đó, Niết-bàn khi được đề cập trong hệ thống này cũng chỉ là phương tiện thi thiết mà ở kinh Lăng Già đức Phật đã dạy cho ngài Đại Huệ:

"Này Đại Huệ, kinh nói ra tùy căn cơ của chúng sanh nên không thể hiển thị được chân lý "Như thị"; lời nói hiển thị được cái như thật. Nó giống như dương diễm (mirage) phỉnh gạt lũ thú đang khát vọng tìm nước uống ở chỗ không có nước; cũng vậy, lời dạy của kinh nhằm thõa mãn trí tưởng tượng của phàm phu nên không hiển thị được thực tại, nên nương theo nghĩa, chớ chấp vào ngôn từ và giáo thuyết." (Trúc Thiên dịch – Thiền luận I)


Đó cũng là lý do tại sao chư Tổ thường nhắc nhở

" Y kinh diễn nghĩa tam thế Phật oan
Ly kinh nhứt tự tức đồng ma thuyết."

Niết-bàn, như thế là một quá trình luôn luôn vượt qua; vượt qua những gì có thủ đắc. Cho đến cái vượt qua ấy cũng phải được vượt qua; cũng có nghĩa rằng chẳng vượt qua đâu cả. Vì chưa từng bám trụ ở chỗ nào thì làm gì có chuyện vượt qua. Tất cả đều duyên sinh vô ngã:

"Chư Phật lưỡng túc tôn
Tri pháp thường vô tánh
Phật chủng tùng duyên khởi
Thị cố thuyết nhất thừa."
(kinh Pháp Hoa)

Cho nên:

"Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng."

Có thể nói rằng; sự chấm dứt khổ, như đã trình bày ở trên đó là cái Đẹp theo thẩm mỹ Phật học mà các kinh điển đều hiển thị; dù Nguyên thủy hay Đại thừa. Nhưng phải nói kinh Pháp hoa đã hiẻn thị cái đẹp này sinh động nhất, qua hình tượng hoa sen. Hoa sen được dùng làm biểu tượng để diễn đạt nội dung cái Đẹp. Đó là cái Đẹp của một cuộc sống biết vận dụng tất cả những gì cho là ô trọc biến thành hương thơm ngát diệu tỏa khắp muôn phương, là một nhân cách sống trong chốn bùn dơ nhưng không bị cấu nghiễm bỡi bùn dơ. Không những thế còn đủ khả năng biến cấu uế thành thanh tịnh. Một điều lý thú, nếu không có cái gọi bùn dơ ấy thì chắc chắn không có giá trị của cái hương thơm. Sen làm nên bùn; bùn làm nên sen; sen với bùn không hai không khác, để rồi sen và bùn thong dong đi vào cõi bất cấu bất tịnh; bất tăng bất giảm. Đây là cái lí của sinh tử tức Niết-bàn,

Cái Đẹp Phật giáo như thế đó. Trong cuộc sống bình thường này và trong mỗi con người bình thường này. Đừng tìm đâu xa; vì tất cả chỉ là không tưởng. Hãy thành thật với chính mình thì sẽ biết mình là ai và phải làm như thế trong cuộc sống Người và kiếp Người.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3186)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3574)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4090)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5292)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2716)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6214)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3125)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3180)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3393)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3308)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3372)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4635)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2786)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5279)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3958)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3900)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3258)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4206)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5114)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3587)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6826)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 4021)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3262)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3149)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 3008)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5919)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4687)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3540)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2931)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3353)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4466)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5784)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6696)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3776)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4587)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4664)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 4024)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3458)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4714)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6127)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5894)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3707)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4759)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4526)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4594)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4344)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4674)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8282)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3986)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5796)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5283)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6917)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6275)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6080)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5897)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6372)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6854)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 5031)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5649)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6463)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant