Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bụt hay Phật?

09 Tháng Tư 201200:00(Xem: 14837)
Bụt hay Phật?
BỤT HAY PHẬT? 
Nguyễn Trọng Phu

buthayphat-nguyentrongphuI. Lý do đặt vấn đề 

Trong khoảng mươi mười lăm năm nay, trong một số các đạo tràng Phật giáo, một số các chùa, nhóm tu học, cũng như một số sách báo Phật giáo, đã xuất hiện một danh từ mới, đó là danh từ Bụt, để tôn xưng bậc Giác ngộ, mà trước đây, người ta vẫn thường gọi là Ðức Phật. Và nói rộng ra, Ðạo Phật cũng được gọi là Ðạo Bụt. Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm, như sau đây sẽ được chứng minh cụ thể hơn, nhưng vì việc sử dụng ấy đã gần như bị đứt đoạn, ít nhất là trên văn chương sách vở, trong một thời gian, nên nay đem ra sử dụng lại, có thể gây nên một số hiểu lầm, nhất là đối với những đồng bào lớn tuổi vốn rất quen thân với danh từ Phật. Những vị này thường cho rằng danh từ Bụt là để chỉ cho các vị Tiên Thần, như trong các truyện cổ tích dân gian, và có tính cách nôm na bình dân, chứ không được hàm súc thiêng liêng như danh từ Phật. Việc hiểu lầm này đã xảy ra khá sâu rộng, chẳng những trong giới bình dân, mà ngay cả trong giới trí thức làm công tác văn học giáo dục nữa. Như một vị cựu Chủ Tịch Văn Bút VN Hải Ngoại đã viết: “Ông... đưa đạo Bụt, chữ của Ông, vào cuộc đời” (Khởi hành 10/97). Tại quốc nội, một vị giáo sư đã viết “thật rung động trong lòng, thì ra Ông Bụt mà chúng ta có dịp làm quen từ các chuyện cổ tích..., cái hình ảnh quen thuộc ấy, hóa ra lại là Ðức Phật (Hương Sen 9/96). 

Dĩ nhiên, việc thay đổi một tập quán, kể cả tập quán về ngôn ngữ, đòi hỏi cần có một thời gian khá lâu, có thể đôi ba mươi năm, mới có thể thực hiện trọn vẹn được. Nhưng nếu có được một số đông người hiểu biếtlý do vì sao nên thay đổi như vậy, thì tiến trình thay đổi nhất định sẽ được thuận lợi nhanh chóng hơn nhiều, và ít nhất cũng sẽ tránh bớt được một số sở tri chướng mà bất kỳ một sự thay đổi lớn nào cũng có thể gây nên. 

II. Ðịnh nghĩa danh từ Bụt 

Trước hết, chúng ta cần tra cứu các từ điển, xem danh từ Bụt nói gì. 

1. Việt Nam Từ Ðiển của Hội Khai Trí Tiến Ðức, xuất bản lần đầu tại Hà Nội năm 1931. 
Bụt: Tiếng gọi Ông Phật. 
Văn liệu: Lành như Bụt (tục ngữ). Ðất Vua, chùa làng, phong cảnh Bụt (thơ cổ). Bẻ tay Bụt ngày rằm (T.ng.). Bụt trên tòa sao gà mổ mắt (T.ng.). Gần chùa gọi Bụt bằng anh (T.ng.). Bụt không thèm ăn mày ma (T.ng.). Bụt chùa nhà không thiêng (T.ng.). Bụt nhà không cầu, đi cầu Thích Ca ngoài đường (T.ng.). 
Sư rằng cửa Bụt thênh thênh (Nhị độ mai) 
Chỉ mong cầu khẩn Bụt Trời (Nhị độ mai) 

2) Từ Ðiển Việt Nam, Khai Trí Sài Gòn, 1971 
Bụt: Ông Phật 
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưỡng (Nguyn Công Trứ) 

3. Từ Ðiển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1988 
Bụt: Phật, theo cách gọi dân gian 
Lành như Bụt. Bụt chùa nhà không thiêng (T.ng.) 

4. Việt Anh Tự Ðiển, Nguyn Văn Khôn, Sài Gòn, 1972 
Bụt: Buddha. 

Trên đây, ta đã thử tra một số từ điển xuất bản trong thế kỷ XX này, từ 1931 đến 1988. Bây giờ ta hãy tra một quyển từ điển cổ, xuất bản năm 1651 tại La Mã, xem người Việt hồi thế kỷ XVI đã có sử dụng danh từ Bụt để gọi Phật hay chưa. Ðó là quyển Dictionarium Annamitticum, Insitanum et Latinum (Tự điển Việt - Bồ Ðào Nha - Latinh) của Alexandre De Rhodes, hiện còn lưu trữ tại La Mã. Theo từ điển này, thì hai danh từ Bụt và Phật đều đã được dùng để gọi Buddhã. Ngoài ra, còn có một tài liệu viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên (1659) của Bento Thiện thuộc Dòng Tên, đã nói về lịch sử và phong tục tập quán của nước Annam, sẽ được nói rõ hơn trong mục III sau này. 

III. Việc sử dụng danh từ Bụt qua thời gian 

1) Trong ngôn ngữ hằng ngày 
Người dân quê Việt Nam, từ xa xưa, vẫn thường gọi Buddhã là ông Bụt, đến nay vẫn còn in rõ dấu tích. Tại vùng Chương Mỹ, Hà Tây, Bắc bộ, có một ngôi chùa cổ, tên chữ là Hỏa Tinh, cách Hà Nội 40km trên đường số 6 đi Hòa Bình. Cách lộ độ một km, trên một ngọn đồi trọc, có một pho tượng Ông Bụt bằng đá. Khách từ xa đến thăm viếng, nếu hỏi thăm chùa Hỏa Tinh, nhiều người không biết. Nhưng nếu hỏi thăm chùa Ông Bụt, thì từ cụ gà đến trẻ em, ai nấy cũng đều chỉ đúng chùa Hỏa Tinh này. 

2) Trong ca dao tục ngữ 
Như đã trình bày tại mục I, trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam, có rất nhiều câu dùng danh từ Bụt để chỉ Buddhã. Sau đây, xin ghi thêm vài câu tiêu biểu, ngoài các câu đã liệt kê nơi phần định nghĩa. 
Ðẹp như Tiên, hiền như Bụt 
Ði với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. 
Các ca dao tục ngữ này, phần nhiều đều xuất phát từ miền Bắc và miền Trung Việt Nam, vì một lẽ rất d hiểu là cái nôi văn hóa Việt Nam là đồng bằng Bắc bộ, là thành Luy Lâu và Thăng Long xưa cũ. Cho nên, đối với người dân Bắc bộ, ngay cả đối với thế hệ trẻ lớn lên sau này, không có một chút phân vân nào về danh từ Bụt là Phật. Và cả hai danh từ Bụt và Phật đều có giá trị văn hóatâm linh như nhau. 

3) Trong sách vở và kinh sách 
Ðây mới chính là phần quan trọng nhất trong bài này, vì nó sẽ chứng tỏ cho ta thấy, qua bao nhiêu thế kỷ, ông cha chúng ta vẫn luôn luôn dùng danh từ Bụt trong văn chương bằng chữ nôm, tức là văn chương quốc âm, song song với việc dùng danh từ Phật trong các sách vở viết bằng chữ Hán, là thứ chữ chính thức dùng trong triều đình và các công việc hành chánh. Có một điều đáng tiếc là trong thời gian cận đại, việc sử dụng danh từ Bụt trong văn chương gần như bị đứt đoạn, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, và có lẽ cũng nên có một bài khảo cứu riêng về vấn đề này. Chính vì sự đứt đoạn đó, mà khi được sử dụng trở lại, một số ít người có phần ngỡ ngàng, cho đó là một danh từ mới, hay một danh từ cũ với nghĩa khác, nhưng được cưỡng dụng theo nghĩa Phật. 

Nhưng trước khi qua phần dẫn chứng, một câu hỏi ngắn cần nên được giải đáp, là làm sao ta có thể biết được, từ xa xưa, ông cha chúng ta đã gọi Buddha là Ông Bụt, trong khi, lúc bấy giờ, chưa có máy ghi âm hay chữ quốc ngữ như hiện nay. Câu trả lời thật đơn giản là. Ðó là: 

a) Do các từ cổ xưa còn sót lại trong ngôn ngữ dân gian, trong các ca dao tục ngữ, như đã được đề cập đến trong giai đoạn 1 và 2 của phần III này. 

b) Do chữ viết riêng của nước ta là chữ NÔM. Ðó là một thứ chữ hình thành từ chữ Hán, giống như trường hợp các nước Á Châu khác, như chữ Hòa văn của Nhật, chữ Triều Tiên v.v... Mới nhìn, ta có thể lầm đó là chữ Hán, vì nó được viết gần giống như chữ Hán, mà không phải là chữ Hán, vì chính người Hoa cũng không thể đọc và hiểu được. Một thí dụ đơn giản: hai chữ Hán bách niên.... .... có nghĩa là trăm năm, thì chữ Nôm viết là.... .... , và chỉ có người Việt mới đọc và hiểu được mà thôi, vì trong chữ Hán, không hề có hai chữ.... .... này. Chứng tích việc sử dụng chữ Nôm để viết thơ văn bắt đầu từ Hàn Thuyên, cuối thế kỷ thứ XIII, dưới thời Nhà Trần, nhưng trước đó khá lâu, đã có nhiều tài liệu viết bằng Hán văn mà ghi tên người Việt bình dân bằng chữ Nôm, như trường hợp các văn bia ở Chùa Miếu, và nhất là tên BỐ CÁI ÐẠI VƯƠNG.... .... .... .... mà nhân dân ta tôn xưng PHÙNG HƯNG khi ngài đánh đuổi quân đô hộ Tàu vào năm 791. Trong danh xưng này, chữ Ðại Vương là chữ Hán, còn Bố Cái cũng là chữ Hán, nhưng được mượn để viết ra âm Việt thuần túy, Bố là cha, Cái là mẹ. Nếu dùng chữ Hán, phải gọi là phụ mẫu. Như vậy, từ 1200 năm về trước, tổ tiên ta đã biết sử dụng danh từ Bụt để chỉ Buddhã. 

c) Do tìm thấy chữ Bụt trong các văn bản quốc ngữ cổ. Nhiều người cứ nghĩ rằng chữ quốc ngữ mới được sáng chế gần đây, và được phát triển mạnh vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, và như vậy, chỉ có thể tìm thấy chứng liệu cho các sự kiện xẩy ra trong thời kỳ này. Nhưng các cuộc nghiên cứu về sự hình thành chữ quốc ngữ đã phát hiện được một số tài liệu viết bằng chữ quốc ngữ cổ vào khoảng 1622-1659, tức là trước đây khoảng 350 năm, nay vẫn còn được lưu trữ tại một số thư viện Tây phương, và trong đó, danh từ Bụt được sử dụng một cách rất rõ ràng, chính xác
Bây giờ, ta có thể đưa ra một số chứng liệu tiêu biểu qua từng thế kỷ về việc sử dụng danh từ Bụt. 
Thế kỷ XIII và XIV 
* Trần Nhân Tông (1258-1308) 
... 
Thờ phụng Bụt Trời 
Ðêm ngày hương hóa 
Tụng kinh niệm Bụt 
Chúa Thánh khẩn cầu... 
(Ðắc thú lâm tuyền thành đạo ca - Ðạo Phật Việt Nam, Thích Ðức Nghiệp, Sài Gòn, 1995) 
* Huyền Quang (1258-1308) 
... 
Chỉn ấy Trời Thiêng mở khéo, 
Nhèn chi vua Bụt tu hành 
... 
Nương am vắng, Bụt hiện từ bi, gió hiu hiu, mây nhẹ nhẹ 
Kề song thưa, Thầy ngồi thiền định, trăng vặc vặc, núi xanh xanh 
(Vịnh chùa Hoa Yên - Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Q.II, Nguyn Lang) 
* Mạc Ðỉnh Chi (1284-1361) 
Niệm Bụt ăn chay, Diêm vương mới phục 
Dầu phàm dầu thánh, min được an nhàn 
(Phú dạy con - Ðạo Phật Việt Nam, Thích Ðức Nghiệp) 
Thế Kỷ XV 
* Nguyễn Trãi (1380-1442) 
Thân đà hết lụy thân nên nhẹ 
Bụt ấy là lòng, Bụt há cầu... 
(Mạn thuật) 
... 
Thiêu hương đọc sách quét con am, 
Chẳng Bụt, chẳng Tiên, ắt chẳng phàm... 
(Tự thán) 
Dù Bụt dù Tiên ai kẻ hỏi 
Ông này đã có thú ông này... 
(Quốc âm thi tập) 
[Văn học Việt Nam - Phạm Văn Diêu] 
* Lê Thánh Tôn (1442-1497) 
Hái củi quế tiển trà, khủng khỉnh một bình một bát 
Nằm am mây tắm suối, nghêu ngao nửa Bụt nửa Tiên 
(Thập giới cô hồn quốc ngữ văn - VN Phật giáo Sử luận, Nguyn Lang) 
* Giai thoại: Ba Ông Tam Thế 
Ðời vua Lê Thánh Tôn, có ba ông tiến sĩ đồng khoa là Thế Lịch, Thế Hiển, Thế Vinh. Hôm ban yến tiệc, vua có ứng khẩu một câu rằng: 
Thế Lịch, Thế Hiển, Thế Vinh 
Tam thế đồng khoa, Vinh Hiển Lịch 
Ðến ngày vinh qui bái tổ, Thế Lịch về đến huyện Trực Minh thì có bạn là Phạm Văn Uyển ra đón mừng một bài thơ rằng: 
Ba ông Tam thế trên tòa, 
Khéo rủ nhau vào đỗ một khoa 
Như vậy Bụt no nhờ có oản 
Chẳng thì Bụt đói, Bụt ra ma. 
Thế Lịch tức thì họa lại: 
Có tu Bụt mới hóa trên tòa 
Một tháng hai lần, din giáo khoa 
Bụt vẫn ăn chay, không sợ đói 
Bụt đâu có lẽ hóa ra ma. 
(Văn đàn Bảo giám, Trần Trung Viên, Hà Nội, 1926) 
Thế kỷ XVI 
* Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) 
Làm chi lẽo đẽo hoài cho nhọc 
Cầu Thích Ca nào, để Bụt nhà 
...Cơm áo bỗng xui người hóa quỷ 
Oản xôi
dễ khiến Bụt nên ma 
... 
Chưa dễ ai là Bụt Thích Ca 
Mọi niềm nhân ngã nhẫn thì qua... 
(Nhân tình thế thái - Ðạo Phật V.N. Thích Ðức Nghiệp) 
Thế kỷ XVII 
Trong thế kỷ này, ta chọn hai tài liệu tiêu biểu, một của Thiền sư Chân Nguyên, và tài liệu kia của một thầy giảng Ðạo Thiên Chúa. 
* Chân Nguyên (1646-1726) 
... 
Thuở xưa hội cả Kỳ viên 
Bụt cầm một đóa hoa sen giơ bày 
... 
Niệm Bụt Di Ðà chẳng khuy 
Ngày thì xem tự, đêm thì tụng kinh 
... 
Cho hay Ðức Bụt Thích già 
Hóa thân bách ức, khắp hòa mười phương 
(Thiền Tông Bản Hạnh - Chân Nguyên Thiền sư, Lê Mạnh Thát, Sài Gòn, 1972) 
Ðến đây, có thể có người hỏi, đồng ý rằng Tổ tiên chúng ta đã dùng danh từ Bụt để gọi Buddhã, nhưng đó chỉ là ngôn ngữ thi ca mà thôi, mà ngôn ngữ thi ca khác với ngôn ngữ bình dân rất nhiều. Thế có tài liệu bằng văn xuôi chứng tỏ rằng ông cha chúng ta đã dùng danh từ Bụt trong ngôn ngữ dân gian hằng ngày chăng? Xin đọc tiếp tài liệu của một người Công giáo VN sau đây: 
* Bento Thiện (sinh 1614) 
Bento Thiện là một thầy giảng thuộc Dòng Tên đạo Thiên Chúa, sống gần thời với Alexandre de Rhodes (1593-1660) đã học chữ quốc ngữ đầu tiên với các linh mục Dòng Tên Marini, Gaspar d'Amiral, Ðắc Lộ. Tài liệu sau đây là tài liệu viết tay vào năm 1659 mà Bento Thiện viết, để kèm theo thư gởi cho Marini ở La Mã, và vì cùng một nét chữ với lá thư chính nên được đánh giá như Bento Thiện sáng tác, có tiêu đề “Lịch sử nước Annam” cũng được đặt ra sau này vì nội dung của nó. Qua tài liệu này ta được biết khá rõ về tình hình chính trị cũng như văn hóa xã hội, tập quán của nước Việt thời Trịnh Nguyn phân tranh, và đặc biệt là giữa thế kỷ XVII dân Việt Nam gọi Buddhã là gì? Vì vậy tài liệu chỉ trích đăng những đoạn có nói đến Bụt mà thôi. Tất cả những tài liệu sau đây đều được trích ra từ quyển Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ của Ðỗ Quang Chính, Tủ sách Ðường Mới, Paris, 1985. Trong những đoạn trích đăng, nếu có những chỗ nào khó hiểu vì từ cổ hoặc viết sách cổ, người viết xin được đặt vào dấu ngoặc danh từ thường dùng tương đương. Và các đoạn trích đăng đều dựa theo thứ tự trước sau trong nguyên bản. 
... Lại truyền cho Nhân Tông đời nhà Lý là thứ ba lên trị, đặt có lề luật phép tắt (tắc). Thiên hạ phú quí. Lại làm chùa thờ bụt mà ở chùa. 
... Lại truyền cho Minh Tông là thứ năm, mà chuộng dùng đạo bụt, yêu sãi vãi. 
... Thói nước Annam đầu năm mùng một tháng giêng, gọi là ngày Tết, thiên hạ đi lạy vua, đoạn lạy chúa, mới lạy ông bà ông vải, cha mẹ cùng kẻ cả bề trên. Quan quyền thì lạy Vua Chúa, thứ dân thì lạy Bụt trước. 
(*) “Ðến tháng bãi” (bảy) là Tết mùa thu, ay (ai) có cha mẹ anh em bợ (vợ) con mới chết, thì đến tháng bãi (bảy) phải làm cỗ cho làng ăn, nhà giào (giàu) thì làm chai (chay) đọc Kenh (kinh) mấy (mấy) ngài (ngày) thì mạc (mặc) làu (lòng), mà xin cũ (cùng) bụt địa tạng mục lien (liên) cho linh hồn được siêu sinh phật cuác (quốc) lên thiên đàng.” 
...Ðến mùng một, liền lên nêu mọi nhà cho kẻo quỉ cướp lấy. Rằng nhà ai có nêu là đất Bụt, nhà nào chẳng có nêu, ấy là đất quỉ. Xưa người ta có nói truyền rằng, một bụt một quỉ thì giành đất nhau. Bụt rằng, tao có một áo casa này, tao trải đến đâu thì đất tao đến đấy. Bây giờ Bụt lấy áo mà trải ra, liền hết đất thì quỉ phải ra ở biển. H là đến ngày hết năm thì quỉ lại ăn cướp đất nhau. Ai chẳng có nêu, nhà hay là đất, thì về quỉ, cho nên thiên hạ phải nêu (dựng nêu). 
...Chùa thờ bụt thì một làng là một chùa, nhà thờ thần thì cũng vậy chẳng kể được cho hết. 
Sau đây là photocopy nét chữ viết tay của Bento Thiện năm 1659, đoạn (*) “Ðến tháng bảy là Tết mùa thu,” để được biết cách viết chữ quốc ngữ cách đây 340 năm như thế nào. 
.............................................................. 
***BẢNG VIẾT TAY TRANG 9 VÀ DẤU TRONG BÀI TRANG 9, CHỖ ÐÁNH DẤU (*) ÐOẠN ÐẦU Chừa chỗ dán đoạn chữ viết tay, cao 1 in 1/4, bề ngang bằng trang báo 
.................................................................. 
Thế kỷ XVIII 
* Kinh Cổ Châu Phật Bản Hạnh (Năm Cảnh Hưng thứ 18) 
...A nan bạch Bụt quì tâu 
Rằng bên Ðông độ khẩu cầu tin thay 
Ðốc lòng tin Bụt trong thầy 
Tôi xin xuất thế sang rày nên chăng 
Thế tôn Bụt mới phán rằng 
Khiến ai có phép thần thông độ người 
(Thích Ðức Nghiệp - Ðạo Phật VN) 
* Phan Mậu Hiên (1767-1800) 
... Lẽ công trên cõi nhờ Trời Bụt 
Ðường lối trong nhà sẵn đất đai... 
(Xử Thế, Văn học VN, Phạm Văn Diêu) 
* Truyện Phan Trần - Vô danh 
...Thoát thôi về chốn tỉnh đường 
Buồn trông phong cảnh tha hương ngập ngừng 
Kìa thì Bụt nọ thì Tăng 
Chẳng hay từ mẫu lạc chừng phương nao? 
(Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển - Dương Quảng Hàm) 
Thế kỷ XIX 
* Phạm Thái (1777-1813) 
Một tập thơ dày ngâm sang sảng 
Vài nai rượu kếch ních tì tì 
Chết về Tiên Bụt cho xong kiếp 
Ðù oả trần gian sống mãi chi? 
(Viết Nam Thi Văn Hợp Tuyển - Dương Quảng Hàm) 
* Lý Văn Phức (viết bài này năm 1834, sau khi đi sứ về) 
Nhờ hòn đất lại nặn nên ông Bụt 
Giấc mộng tàn tỉnh cả chốn cư đình 
(Việt Nam thi Văn Hợp Tuyển - Dương Quảng Hàm) 
* Nguyn công Trứ (1778-1859) 
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng 
(Từ điển Việt Nam - Nguyn Quốc Hùng) 
* Chu Mạnh Trinh (1862-1905) 
...Cầm bằng nương náu qua ngày Bụt 
Ðã chắc nguồn cơn trọn kiếp tu 
(Vịnh Kiều ở chùa, Văn đàn Bảo giám - Trần Trung Viên) 
* Nguyn Khuyến (1835-1909) 
Ai đi Hương Tích chợ trời đi 
Chợt họp quanh năm cả bốn thì 
Ðổi chác người tiên cùng khách bụt 
Họp hàng gió chị lại trăng dì 
(Chơi Chợ Trời Hương Tích, Văn đàn Bảo giám - Trần Trung Viên). 
Thế Kỷ XX 
* Tình Si Tử (?) 
...Khó vậy làm em, giàu đã chị, 
No thì nên Bụt, đói ra ma 
(Hủ nho tự trào, Việt Nam Văn Học Sử yếu - Dương Quảng Hàm) 
* Bà Chúa Liu - Tương truyền có bài giáng bút “Khuyến Thế Nhân” có hai câu được trích sau đây: 
Của Bụt mất một đền mười, xin chớ ăn chay nói dối 
Nam mô một bồ lấy bốn, thà rằng ăn mặn nói ngay 
(Văn đàn Bảo giám - Trần Trung Viên) 
* Tam Thiên Tự - Không rõ tác giả, nhưng vào đầu thế kỷ 20 này, người Việt học chữ Hán thường học tiếng một chữ Hán kèm theo nghĩa Việt, như sau: 
Thiên-trời, Ðịa-đất... Tiên-tiên, Phật-Bụt... 
Xem trên, ta thấy rõ ràng kể từ thế kỷ 13, với các tác phẩm bằng chữ Nôm của Cung đình và Cao tăng triều Trần trở đi, danh từ Bụt vẫn được sử dụng liên tục qua từng thế kỷ, bởi các nhà khoa bảng đỗ đạt cao, vừa viết các tác phẩm bằng chữ Hán, vừa viết văn quốc âm. Duy đến thế kỷ 20 này, hầu như danh từ Bụt biến mất trên văn đàn. Ngay cả trong một số lớn chùa chiền, và kinh sách, cũng rất ít dùng danh từ Bụt. Có ý kiến sơ bộ cho rằng vì dưới thời Pháp thuộc, mọi nỗ lực của giới sĩ phu gần như đều dồn vào việc học chữ Hán để đỗ đạt cao và ra làm quan. Vào thời kỳ tranh tối tranh sáng đó, có lẽ vì phản ứng với cuộc đô hộ của người Pháp, nên lớp sĩ phu cuối trào đã gọi chữ Hán với cách viết bằng bút lông là CHỮ TA, còn chữ quốc ngữ viết bằng ngồi bút sắt là CHỮ TÂY. Lại còn có tâm trạng dè bỉu chữ Nôm, cho rằng Nôm na là cha mách qué. Thêm vào đó kể từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh, hai bên đều có xu hướng mời các cao tăng từ Trung Quốc sang để hoằng hóa. Có lẽ vì những yếu tố nói trên, mà danh từ Bụt đã lần lần đi vào quên lãng
May thay, vào khoảng 15 năm cuối thế kỷ 20 này, đã có một số thiền sư, tăng nitrí thức đã mạnh dạn đứng ra gọi Buddhã là Bụt. Hiện nay, tại một số đạo tràng, như Ðạo tràng Mai thôn ở Pháp, và các khóa thiền tập ở khắp nơi trên thế giới, với hàng trăm người tham dự, người ta gọi Buddhã là Bụt một cách rất tự nhiên, như hít thở không khí bình thường vậy; nhất là đối với thành phần trẻ từ 30, 40 tuổi trở xuống, không hề có một phân vân nào. Nhưng như thế đã đủ chưa? 

IV. Vì sao ngày nay chúng ta dùng lại danh từ Bụt? 

Lẽ ra, câu hỏi cần được đặt ra từ lâu, ít nhất từ vài mươi năm về trước, để chuẩn bị dư luận cho việc thay đổi cách xưng hô này. Nhưng, như đã trình bày trước đây, việc thay đổi một tập quán không dễ gì thực hiện toàn vẹn trong thời gian năm mười năm, mà có khi phải kéo dài đến đôi ba mươi năm. Cứ xét đến sự kiện, vào cuối năm 1997, sau khi một số khá đông người gọi Buddhã là Bụt một cách rất tự nhiên, mà vẫn còn có người cho rằng danh từ Bụt là chữ của ông... này, ông nọ, thì việc giải đáp thắc mắc này không phải là vô ích. Ngay cả đối với giới trẻ đã không có một chút phân vân nào đối với danh từ mới này, nhưng đôi khi vẫn còn phải trả lời cho các thân nhân lớn tuổi khi được nêu thắc mắc. 
Vậy thìlý do gì, ta dùng lại danh từ Bụt? 

Có ba lý do chính sau đây: 

1) Danh từ Bụt được dịch hợp lý từ chữ Phạn Buddhã, vì cùng một âm B với nhau. Xét chung trên thế giới, thì hai thứ tiếng phổ biến nhất là Anh và Pháp, cùng đều dùng âm B để dịch như thế (Pháp: Bouddha, Anh: Buddha). Vả lại nhiều nước Phật giáo Nam Tông cũng dùng âm B để dịch chữ Buddha từ tiếng Phạn, tuy giọng đọc có khác nhau đôi chút. Vả lại, theo trào lưu chung thống nhất cách phiên âm, thì hiện nay, Phật giáo Bắc phương, mà Trung Quốc là tâm điểm, từ lâu vẫn dịch Buddhã là Phật đà.... .... nay vừa mới bắt đầu dùng chữ Bột đà.... .... để gọi bậc Giác ngộ. Theo Tự điển Phật học Hán Việt, Phân viện Nghiên cứu Phật học Hà Nội, xuất bản 1992, mà sách tham khảoThực dụng Phật học Tự điển của Lô Quán Cao và Hà Tử Bồi xuất bản ở Thượng Hải, thì: 
Bột đà.... .... Buddha (Thuật ngữ
Còn gọi là Bột.... đà. Cách gọi cũ là Phật đà. Gọi tắt là Phật - dịch là Giác. Nên nhớ là các tự điển Hán Việt của Ðào Duy Anh và Thiều Chửu đều không có danh từ mới này. 
Cách viết mới của Trung Quốc chữ Bột.... rất giống cách viết chữ Nôm Bụt.... của ta và đều cùng đọc với âm B. Chúng ta rất tri ân Tổ tiên từ thượng cổ của chúng ta đã khéo léo dịch danh từ Buddhã ra chữ Bụt và lưu truyền lại cho chúng ta mãi đến ngày nay. 

2) Làm giàu trở lại ngôn ngữ Việt. Có thể có người hỏi, nếu dùng danh từ Bụt thì chẳng lẽ bỏ danh từ Phật? Xin trả lời rằng, chúng ta sẽ dùng cả hai danh từ, như cha ông chúng ta vẫn thường sử dụng vậy. Hồi năm 1659, và dĩ nhiên trước đó hàng bao nhiêu năm, mà đã có người viết về phong tục Việt Nam rằng: “Nhà giàu thì làm chay đọc kinh mấy ngày thì mặc lòng, mà xin cùng Bụt Ðịa Tạng Mục Liên cho linh hồn được siêu linh Phật quốc lên Thiên đàng.” Trong suốt quá trình lịch sử, các Nho sĩ VN vẫn dùng song hành danh từ Bụt và Phật như thế, thì nay chúng ta dùng cả hai cũng là một điều hợp lý. Có bất hợp lý và kỳ thị chăng, là một người lại chủ trương chỉ dùng danh từ Phật mà thôi, với lý do rất đơn giản rằng danh từ Phật có vẻ linh thiêng hơn, vì từ mấy chục năm qua, tại các chùa, cũng đều dùng như vậy. 

3) Bồi đắp gốc rễ tâm linh. Quả thật đối với một số người lớn tuổi, cỡ năm sáu mươi trở lên, không sinh sống gần gũi với nhân dân miền Bắc, và ít có dịp tiếp cận với văn chương quốc âm, thì sử dụng danh từ Bụt có phần ngỡ ngàng và không chừng còn có mặc cảm là có mới nới cũ nữa. Nhưng như đã được trình bày, sự kiện vào thời cận kim, danh từ Bụt có vẻ như bị biến dạng, chỉ là một sự kiện nhất thời và bất bình thường, so với thời gian dài dằng dặc suốt hơn bảy thế kỷ mà cha ông chúng ta đã sử dụng danh từ ấy. Hơn thế nữa, dân ta vẫn có tiếng nói riêng trước khi có chữ viết, có một nền văn hóa riêng khác với văn hóa Trung Quốc, thì các sinh hoạt về văn hóa tâm linh trải dài trong khoảng 13 thế kỷ ấy, tạm kể từ thời Hai Bà Trưng, nhất định phải có tiếng Việt riêng để gọi Buddhã chứ không phải chỉ có một tiếng Phật mượn từ chữ Nho mà thôi. 

Trong quyển Thiền sư Tăng Hội, An Tiêm Paris xuất bản 1998, Thiền sư Nhất Hạnh đã cho rằng, vào đầu thế kỷ III, Thiền tập ở Giao Châu, tên cũ của nước ta, đã rất phát triển, còn phát triển hơn cả ở Trung Quốc, và “chắc chắn là hồi ấy dân ta đã gọi Buddhã là Bụt, đã biết đọc tam quy ngũ giớixưng tán tam Bảo bằng tiếng Sanskrit, cũng có thể đã biết tụng đọc bằng tiếng Việt.” Dù sao thì thời gian đứt đoạn việc sử dụng danh từ Bụt chỉ là thời gian ngắn so với trường kỳ lịch sử dân tộc và lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Nếu một vài gia đình, sau khi di cư ra nước ngoài, con cháu chỉ muốn gọi Nội Ngoại của mình là Grandpa, Grandma... làm cho các ông Nội, bà Ngoại buồn phiền không ít, thì Tổ tiên lâu đời của chúng ta, nếu có sống lại, mà không được nghe cái thứ tiếng mà xưa kia Quý vị đã từng được nghe, cũng đã từng sử dụng, thì thử hỏi cái buồn sẽ sâu đậm đến như thế nào? Như vậy, nếu có hiển linh, nếu có cảm ứng, thì sự hiển linh, sự cảm ứng đối với cả một dân tộc, tất sẽ sâu xa rộng rãi hơn đối với một vài người. Vả lại, đối với bản thân mỗi người, thì bất cứ lúc nào, cũng được tự do khấn nguyện Phật hay Buddhã, hay Bụt tùy ý thích. 

Ai cũng biết rằng một cây có gốc r sâu thì sức sống và sự chịu đựng mạnh mẽ hơn những cây khác. Cây bông sứ, còn gọi là cây đại, vốn ít chịu lạnh, và gặp lạnh nhiều thì chết, thế nhưng cây đại tại chùa Hoa Yên, núi Yên Tử, được trồng từ thời nhà Trần, nay đã trên bảy trăm tuổi, mà qua bao nhiêu sương tuyết và sấm sét trên núi qua, vẫn đứng “trơ gan cùng tuế nguyệt” chính là nhờ gốc rễ đã bám thật sâu vào lòng đất. 

Sinh hoạt tâm linh của chúng ta gần giống như vậy. Nếu những thành tựu tốt đẹp của tổ tiên tâm linh của chúng ta từ xa xưa mà bị vứt bỏ không thương tiếc, thì không chừng chúng ta sẽ trở thành những cô hồn vất vưởng đâu đó. Cho nên, mỗi một chúng ta trong khi tu tập, nên quán chiếu để tìm mọi cách bồi đắp gốc rễ tâm linh của mình. 

Trong niềm tin đó, để kết thúc bài này, tôi xin mượn ý của Nguyễn Công Trứ, mà nói rằng: “Cái tiếng Bụt mà ngày hôm nay tôi đang nói đây, chính là cái tiếng Bụt mà cổ nhân người Việt chúng ta đã từng nói như vậy trước tôi hàng bao nhiêu thế kỷ rồi.” 

Tháng 2 năm 1999 
Nguyễn Trọng Phu

Source: Thế Kỷ 21 Số 123 07-99

Bài Góp Ý của Ðộc Giả:

Bụt hay Phật? 

Ngôn ngữ của một dân tộc có những tiếng do một lý do nào đó, không được dùng thường nữa, dần dần biến thành tiếng cổ. Thường dùng thì có tác dụng đến tâm trí, tình cảm, không dùng lâu ngày đọc lên nghe xa lạ. Ðó là sự khác nhau giữa sinh ngữ và tử ngữ. Ngay trong truyện Kiều nhiều tiếng xem ra rất thông thường, không phải là chữ Hán, không phải là điển tích, mà không được giảng thì người Việt ngày nay cũng không hiểu, ví dụ: 
Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung 

Ngày nay, ít nhất là trong ngôn ngữ chính thức của cả nước, tiếng nghỉ không có một nghĩa nào khác ngoài động từ nghỉ ngơi. Có thể có rất nhiều người hiểu lầm câu Kiều trên là Gia tư nghĩ cũng..., trong khi Nguyễn Du dùng “nghỉ” như một danh từ hoặc đại từ, và từ ấy ngày nay đã thành tiếng cổ. 
Từ “Bụt” chưa đến nỗi thành tiếng cổ vì vẫn tồn tại nhiều trong truyện cổ tích và văn thơ, nhưng từ “Phật” thì sống động hơn nhiều, vì được dùng phổ biến từ mấy trăm năm, đã biến thành tình cảm sùng mộ của Phật tử Việt Nam. Cố gắng để thay thế chữ này bằng chữ kia có ích gì không? Ngôn ngữ đã đóng vai trò của nó, mỗi tiếng sau một quá trình được sử dụng mang một số “credit” đối với người dùng (và ngược lại không dùng thì credit bị mất đi). Tâm thức của ta được tư tưởng bồi bổ đời này qua đời khác, và tư tưởng thể hiện bằng ngôn ngữ. Chính ngôn ngữphát biểu của tâm thức. Vậy nếu tiếng “Phật” đã có vai trò vững chắc trong tâm thức của ta, nó đại diện cho ý niệm từ bi, hiền hòa, giác ngộ v.v..., bây giờ thay bằng một tiếng từ lâu không còn dùng thường (vì thế ít hoặc không gợi lên một ý niệm tôn giáo triết học nào trong lòng chúng ta), thì ta phải chịu những mất mát khó khăn trong việc thay thế ấy để làm gì? Tiếng “bụt” cũng còn ảnh hưởng, nhưng chỉ mang lại một tình cảm cổ tích trong lòng người Việt thôi, còn về mặt học thuật hay tôn giáo thì không. 

Trong đời sống của bất cứ dân tộc nào cũng thế, luôn luôn cái này thay thế cho cái kia, cuộc sống chảy trôi là một cuộc làm mới không ngừng. Ngôn ngữ cũng phải theo sự thay đổi ấy, vì nó là công cụ để din đạt sự việc. Giả dụ bây giờ có một người từ thời Hai Bà Trưng sống dậy và nói với ta một tràng tiếng Việt của thời đó, liệu ta có thể hiểu nổi không? Mọi cái đã được thay thế, từng tí một theo thời gian. Muốn làm sống lại một từ ngữ đã chết hay đang chết là việc rất khó, cần phải phục hồi lại cả một môi trường sử dụng, trong một thời gian rất dài mới mong có kết quả. Trong khi đó dòng đời vẫn trôi, và mọi sự vật tiếp tục biến thiên... 

Trên đây là đôi ý thô thiển của tôi sau khi tôi đọc bài “Bụt hay Phật” đăng trên Thế Kỷ 21 số 123, tháng Bảy, 1999. 

Lê Vĩnh Kỳ (San Francisco, CA) 

Source: Thế Kỷ 21 Số 124 08-99

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12651)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12266)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11044)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10921)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13373)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11794)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13673)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11914)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11185)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12209)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12414)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20607)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12439)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12467)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11730)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11604)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22442)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13587)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29701)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16758)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12018)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16854)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12084)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17938)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12654)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13180)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14772)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22638)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10595)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14056)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13879)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13729)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13879)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13950)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14842)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13864)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18429)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22813)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15406)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17333)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14274)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12595)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11180)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13219)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13117)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18809)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17188)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13522)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12928)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14707)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14665)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15883)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13527)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27449)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13256)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16737)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21404)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant