Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vị trời thành đại Sa Môn

05 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 16953)
Vị trời thành đại Sa Môn
VỊ TRỜI THÀNH ĐẠI SA MÔN 
Toàn Không

 

 Một thời đức Phật ngự tại rừng trúc Ca Lan Đà thuộc thành La Duyệt, nước Ma Kiệt cùng với 500 Tỳ Kheo. Khi ấy tại cõi Trời Đạo Lợi có một vị Trời (Thiên Tử) than thở lo buồn khổ não, Vua Trời Đế Thiên Đế Thích biết vậy, liền đến chỗ vị ấy hỏi:

- Cớ sao Ông than thở khổ não lo buồn thế?

 Vị Trời ấy đáp:

- Thưa Thiên Đế! Không lo buồn sao được, mạng tôi sắp hết rồi, có 5 điềm báo mệnh chung (mạng hết), đó là:

1- Hoa đội trên đầu đang héo dần đi.

2- Áo choàng trở nên dơ bẩn.

3- Mồ hôi ra khó chịu lắm.

4- Chẳng ưa ngồi tòa nữa.

5- Các Ngọc Nữ xa lánh dần.

 Lại nữa: dù thưởng thức vị ngon hoặc uống nước cam lộ chẳng còn thấy mùi vị ngon gì cả.

 Vua Trời Đế Thích bảo vị Trời:

- Nay Ông cho rằng ở đời là thường hằng, việc này không đúng, Ông không nghe đức Thế Tôn nói sao? Đó là:

Tất cả hành vô thường,
Đã sinh ắt có chết,
Không sanh thì chẳng diệt,
Diệt này là tối thắng.

- Thưa Thiên Đế, thân Trời như mặt trời mặt trăng chiếu sáng khắp cả, nay sắp bỏ thân này, tôi phải vào bụng lợn (heo) tại thành La Phiệt, sống nơi dơ, ăn đồ tạp bẩn cũng không đủ no. Khi bị chết do dao đâm mổ xẻ, thật là khủng khiếp như thế, việc này không buồn sao được?

- Nay Ông nên quy y Tam Bảo Phật Pháp Tăng, có thể không bị đọa ba đường dữĐịa Ngục, Ngạ QuỷSúc Sanh. Đức Thế Tôn đã nói kệ ta còn nhớ là:

Quy y Phật khỏi đọa Địa Ngục,
Quy y Pháp khỏi đọa Ngạ Quỷ,
Quy y Tăng khỏi đọa Súc Sinh,
Quy y Tam Bảo đệ nhất ích.

 Nếu Ông muốn đến chỗ Như Lai xin quy y, hiện Ngài đang ở rừng trúc Ca Lan Đà thành La Duyệt nước Ma Kiệt cùng 500 vị Tăng.

- Bây giờ tôi không còn đủ sức thần thông biến hóa nữa, nên không thể đến đó được.

- Ông nên quỳ gối phải, chắp tay hướng xuống thế gian mà nói:

 “Cúi xin đức Thế Tôn khéo quán sát cho.

Nay con sắp khốn cùng, nguyện xin Như Lai thương xót cho.

Nay con nguyện quy y Phật Pháp Tăng, xin Như Lai chứng tri cho.

Nay con nguyện quy y Tam Bảo được khỏi bị đọa Địa Ngục Ngạ Qủy Súc Sinh, xin Như Lai chứng cho”.

 Vị Trời ấy nghe lời Vua Trời (Đế Thích, Thích Đề Hoàn Nhân), liền quỳ xuống, hướng mặt xuống thế gian xưng tên họ, xin tự quy y Tam Bảo Phật Pháp Tăng, xin làm Phật tử không làm Thiên tử; vị ấy nói ba lần như Vua Trời đã bảo, nhất tâm ý trong sự kính ngưỡng.

 Sau khi qua đời ở cõi Trời, không bị vào thai lợn heo, được sinh vào nhà Trưởng Giả ở thành La Duyệt.

 Ngay khi tự quy y, Vị Trời ấy thấy được duyên này, liền hướng qua Đế Thích nói kệ:

Nhờ Ngài không đọa ác,
Súc sanh nhân rất khổ,
Biết sinh con Trưởng giả,
Nhân đó sẽ thấy Phật.

 Chẳng bao lâu sau đó vợ Trưởng giả tự biết có thai, gần 10 tháng sinh một bé trai đẹp đẽ thế gian hiếm có. Khi đứa bé 10 tuổi, Đế Thích thường đến bảo nó:

- Ngươi có nhớ nhân khi xưa không? Ngươi đã tự nói: “Ta nhân đó sẽ thấy Phật”, nay đúng lúc rồi, hãy đến gặp Phật, nếu không sau sẽ hối hận”.

 Một hôm, Tôn Giả Xá Lợi Phất vào thành khất thực, đến nhà Trưởng giả đứng lặng lẽ ngoài cửa, lúc ấy con Trưởng giả trông thấy hình dạng Tôn giả kỳ đặc, liền đến gần hỏi:

- Ngài là ai, Ngài là đệ tử của ai?

 Tôn giả Xá Lợi Phất đáp:

- Ta là Xá Lợi Phất học đạo nơi Thầy ta là Sa Môn Cù Đàm là bậc Phật (chí chân Như Lai Chính Đẳng Chính Giác).

- Nay Ngài diện mạo uy nghi lặng lẽ đứng đây, Ngài mong muốn điều gì?

 Tôn giả Xá Lợi Phất nói kệ đáp:

Ta nay chẳng cầu tiền,
Chẳng ăn chẳng việc chi,
Chỉ vì ngươi mà đến,
Hãy suy xét lời ta.
Nhớ lời xưa ngươi nói,
Cõi Trời lúc nói thệ,
Làm người sẽ gặp Phật,
Nên đến để bảo ngươi.
Khó có Phật ra đời,
Thuyết pháp cũng như thế,
Thân người chẳng dễ được,
Như hoa Ưu đàm nở.
Nay ngươi nên theo ta,
Đến thăm hỏi Như Lai,
Chắc sẽ vì ngươi nói,
Yếu chỉ của đường lành.

 Sau khi nghe Tôn giả nói kệ, liền trở vào chỗ cha mẹ xin được đi thăm viếng đức Thế Tôn, được cha mẹ đồng ý. Rồi con Trưởng giả mang hương hoa và vải tốt theo Tôn giả Xá Lợi Phất đi đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ. Tôn Giả Xá Lợi Phất thưa:

- Đức Thế Tôn, con Trưởng giả chưa biết Tam Tôn (Phật Pháp Tăng), cúi mong Thế Tôn giảng dạy cho con Trưởng giả được sự hiểu biết.

 Lúc ấy, con Trưởng giả từ xa trông thấy đức Phật dung mạo uy nghi, đẹp đẽ trang nghiêm nhìn mãi không chán, liền tiến lên đến gần lễ lạy, rồi lấy hương hoa rải lên thân đức Phật đang ngồi, lại lấy sấp vải dâng lên.

 Khi ấy đức Phật thuyết các luận bố thí, giới cấm, dục là dơ bẩn, các việc làm xấu là tai họa, xuất giacần yếu. Khi chú bé tâm đã khai mở, Ngài nói về khổ, nguyên nhân gây ra khổ, làm sao diệt khổ, con đường đạo quả. Lúc ấy chú bé thấm nhuần lãnh thụ hết, sạch hết cái xấu ở đời, được tâm trong sạch như tờ giấy trắng. Đuợc như thế rồi, con Trưởng giả liền xin được theo Phật. Ngài bảo:

- Còn ít tuổi, phải có phép của cha mẹ, không từ giã cha me, chẳng được làm Sa Môn.

 Con Trưởng giả thưa:

- Con sẽ trở về xin cha mẹ chấp thuận,

- Nếu vậy, bây giờ là đúng lúc.

 Con Trưởng giả liền đứng dậy cúi lạy rồi lui về nhà thưa với cha mẹ xin được theo đức Phật làm Sa Môn, nhưng cha mẹ từ chối và nói:

- Chỉ có một mình con, trong nhà lại có nhiều của cải tài sản, vả lại tu theo Sa Môn không dễ dàng đâu, con nên suy nghĩ cho kỹ.

 Con Trưởng giả đáp:

- Ức kiếp mới có Phật ra đời, đúng thời mới xuất hiện, như hoa Ưu đàm bát đúng thời mới nở chứ không phải lúc nào cũng có đâu, nên con không muốn bỏ mất cơ hội tốt này, xin cha mẹ chấp thuận cho con.

 Ông bà Trưởng giả thấy con nói có lý, không biết làm sao, nên nói:

- Nếu con đã suy nghĩ kỹ và nhất quyết, thì cha mẹ không ngăn cản.

 Lúc ấy, con Trưởng giả vái lạy cha mẹ từ giã ra đi đến chỗ đức Phật cúi lạy rồi thưa:

- Cha mẹ con đã bằng lòng cho con được theo chân đức Thế Tôn, cúi mong Ngài cho con được làm Sa Môn.

 Bấy giờ đức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất:

- Nay Thầy độ cho con Trưởng giả làm Sa Môn.

- Xin vâng, thưa Thế Tôn.

 Tôn giả Xá Lợi Phất vâng lời đức Phật dạy, độ cho con Trưởng giả làm Sa Di, ngày ngày dạy dỗ. Sa Di ấy ở trong chỗ vắng tu hành, khắc phục mọi khó khăn tu hành như các vị con nhà danh giá xuất gia học đạo, tu phạm hạnh (khuôn mẫu đức hạnh phép tắc) tối cao, muốn được xa lìa khổ não của cuộc đời. Sau một thời gian tu hành nghiêm chỉnh như thế, Sa Di đạt tới bậc A La Hán, Tôn giả ấy đến chỗ đức Phật thưa:

- Con đã học Phật nghe pháp, tu hành đầy đủ, nay không còn nghi ngờ gì nữa.

 Đức Phật hỏi:

- Thầy học hỏi tu hành như thế nào mà không còn hồ nghi nữa?

 Sa Di thưa:

- Sắc là vô thường, vô thường thì khổ, khổ thì vô ngã, vô ngã tức là không, không là chẳng phải có, cũng chẳng phải không có.

 Thọ, tưởng, hành, thức vô thường, vô thường thì khổ, khổ thì vô ngã, vô ngã tức là không, không tức là chẳng phải có, chẳng phải không; người trí hiểu biết như thế, nhiều sự khổ não không thể trị liệu, không thể giữ mãi, ắt phải quán vô ngã.

 Hôm nay con quán sát pháp này, liền thấy được Như Lai”.

 Đức Phật bảo:

- Lành thay, lành thay! Sa Di, cho Thầy làm đại Sa Môn.

 

LỜI BÀN:

 Bài Kinh này dạy chúng ta điều gì?

1- Trước hết là dù có được sinh đến cõi Trời, khi hết phúc báo, hết tuổi thọ cõi Trời rồi lại bị đọa nếu ở cõi Trời không biết tu hành. Vì ở cõi Trời sung sướng thường thích hưởng thụ nên quên tu hành, trong 6 tầng Trời thuộc Dục giới, chỉ có cõi Đâu SuấtĐao Lợi là có Phật Pháp đang lưu hành. Ở các cõi Sắc giới cũng có Phật pháp lưu hành như cõi Phạm Thiên; tuy nhiên ngay cả tại ba cõi vừa kể, không phải chư Thiên nào cũng biết đến Phật pháp; như ở cõi NgườiPhật pháp đang lưu hành, nhưng không phải mọi người trên địa cầu này đều biết phật pháp. Ngay cả những người biết Phật pháp, chưa chắc đã tu hành theo.

2- Thứ nữa là sự quy y Phật Pháp Tăng đã đem lại lợi ích lớn, như vị Trời kia nếu không được Vua Trời mách bảo, và nếu không tự quy y, thì đã bị đọa sinh vào loài lợn heo rồi. Cái lợi của sự quy y Tam Bảo to lớn như thế, nhưng đa số chúng ta không thấy sự lợi lạc này, nên nhiều người đã coi thường sự quy y. Vậy những ai chưa quy y hãy đến bất cứ Chùa nào mà mình cảm thấy vị Thầy có tâm đạo hạnh để xin quy y, đừng bỏ lỡ.

3- Còn việc Tôn giả Xá Lợi Phất đến nhà Trưởng giả đứng làm thinh để độ cho con Trưởng giả là do nguyên nhân nào?

 Có thể rằng Vua Trời Đế Thích đã nói với Tôn giả sự việc, cũng có thể Tôn giả quán sát biết, hoặc do đức Phật cho Tôn giả biết.

4- Một điểm thiếu sót, không hiểu tại sao Kinh này không nói tên của vị đại Sa Môn ấy?

5- Đến đây, chúng ta thử bàn về đoạn chót của bài Kinh:

 Sau khi Sa Di tu hành thấy có kết quả rồi, bèn đến chỗ đức Phật thưa rằng: “Con đã học Phật nghe pháp, tu hành đầy đủ, Nay không còn nghi ngờ điều gì nữa”, ý nói đã học đầy đủ, tu hành trọn vẹn, đã đạt mục đích, nên không còn việc gì phải làm nữa.

 Đức Phật liền hỏi: “Thầy học hỏi tu hành thế nào mà không còn hồ nghi nữa?Đức Phật muốn trắc nghiệm xem Sa Di đã học hỏi như thế nào, hiểu biết ra sao, thực hành đến đâu rồi?

 Sa Di bạch: “Sắc là vô thường, vô thường thì khổ, khổ thì vô ngã, vô ngã tức là không, không là chẳng phải có, cũng chẳng phải không có”, Chúng ta thử phân tích xem đoạn này Tôn giả Sa Di muốn nói gì?

- Sắc là vô thường:

 Sắc là vật chất, mọi vật chất đều biến đổi, như cái nhà, cái xe, thân xác chúng ta mỗi ngày mỗi thay đổi. Từ mới thành cũ thành hư, từ trẻ thành già thành bệnh rồi chết; như vậy rõ ràng chẳng có cái gì chắc chắn trường tồn, nên “sắc là vô thường”.

- Vô thường thì khổ:

 Cái nhà cái xe cũ đi, hư hỏng, làm cho ta lo buồn; thân ta mỗi ngày già đi, yếu đi, sinh bệnh tật rồi chết làm cho ta buồn khổ. Như vậy vì những sự thay đổi tồi tệ ấy làm cho ta không vui được, như thế rõ ràng “vô thường thì khổ”.

- Khổ thì vô ngã:

 Vô ngã: là không có tôi, không có ta, tại sao khổ thì vô ngã? Đây chỉ là một cách nói, chính ra nên nói: “Khổ thì phải vô ngã” vì có ngã có ta nên mới khổ, nếu không chấp ngã. không chấp ta thì hết khổ, nếu không chấp cái của ta thì hết khổ, tại sao? Vì chấp cái thân này là mình, chấp cái nọ cái kia là của mình, chấp chặt như thế, nên khi thân này già đi yếu đi, bệnh hoạn đến chết, cái xe bị hư hỏng v.v..., thì cảm thấy buồn khổ.

 Nếu không cho thân này là ta, không cho cái nọ cái kia là của ta, thân này có bệnh hoạn già chết, cái xe hư hỏng v.v..., cũng chẳng động tâm thì làm sao buồn khổ được, nếu không chấp ta, không chấp cái của ta sẽ hết khổ, nên nói “khổ thì phải vô ngã để hết khổ”.

 Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành; Tâm gồm “Thọ, Tưởng, Hành, Thức”; thân kết hợp bởi các bộ phận, tất cả bộ phận thân thể đều do sự kết hợp của các tế bào nguyên tử mà thành, các tế bào luôn sinh diệt không ngừng, nên nó là vô thường, chẳng có cái gì có thể gọi là cái ta, đó là về Sắc Thân.

 Còn về Tâm gồm: cảm giác (Thọ); suy nghĩ, tưởng nhớ (Tưởng); tác ý, ý muốn, suy nghĩ (Hành); phân biệt, so sánh (Thức). Tâm gồm bốn thứ thuộc tinh thần, chúng luôn luôn thay đổi không cố định, như cảm giác có lúc buồn có lúc vui (Thọ), có lúc suy nghĩ tưởng nhớ có lúc không suy nghĩ tưởng nhớ (Tưởng), có lúc suy nghĩ muốn làm có lúc không suy nghĩ, không muốn làm gì cả (Hành), có lúc phân biệt so sánh việc này việc nọ có lúc không muốn phân biệt so sánh gì cả (Thức). Như vậy bốn món của tâm không đồng nhất, luôn luôn biến đổi, nên chẳng có cái nào được gọi là ta, do đó “Vô thường thì vô ngã”.

- Vô ngã tức là không: Tại sao?

 Vì đã cho rằng: không có Ngã, tức không chấp nhận cái thân tâm này là ta rồi, nó chỉ là giả có tạm có, chứ nó không có thực thể gì, nên nó là không, nên nói “Vô ngã tức là không” là vậy.

- Không là chẳng phải có, cũng chẳng phải không: Là sao?

Không là chẳng phải có: Là sao? Tức là thân tâm này chẳng phải thật có, chẳng thể chấp chặt để rồi sinh ra đủ thứ xấu xa, như sinh ra tham lam, giận hờn, kiêu ngạo, ích kỷ, nói dối v.v... để gìn giữ bảo thủ cho cái ta; nếu không chấp cái thân tâm này là có, đâu còn sinh ra những thứ xấu xa như thế nữa?

Không cũng chẳng phải là không có: Là sao? Tức là tuy coi cái thân này là giả hợp, là tạm, do nhân duyên hợp mà tạm có, là không, nhưng không phải là không ngơ chẳng có gì như trong cái bình không có không khí và bất cứ vật gì. Không phải là không như thế đâu, mà trong cái thân này còn có một thứ trong sạch, tròn sáng nhỏ hơn đầu kim nhọn, lớn bằng đại vũ trụ, nó rất quý giá; cái quý giá này gọi là chân không diệu hữu, không thể nghĩ bàn, nó chính là Phật tánh của mỗi người mà đức Phật đã chỉ cho chúng ta, bởi vậy mới nói “Không chẳng phải là không có”, là vậy.

Toàn Không

(CÙNG TÁC GIẢ)

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5472)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10539)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6105)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9374)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6428)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5984)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7512)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7328)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5221)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8112)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5934)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9653)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7425)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7454)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6243)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5325)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5876)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5679)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3976)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5721)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4100)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7538)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5732)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21949)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5661)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7107)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5043)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6453)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5829)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5022)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7068)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6061)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5584)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5897)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6026)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6852)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6448)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6094)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6506)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6202)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6395)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5620)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6919)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4572)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7802)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6054)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7308)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7743)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5510)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5158)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5690)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5545)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5535)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5030)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4292)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6058)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5641)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6301)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8539)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant