Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

B. Ngài Thế Thântư tưởng Tịnh Độ

16 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 15002)
B. Ngài Thế Thân và tư tưởng Tịnh Độ
TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ TÔNG

HT Thích Như Điển biên soạn


II- TỊNH ĐỘ TÔNG CỦA ẤN ĐỘ

B.- Ngài Thế ThânTư Tưởng Tịnh Độ 

Trong lịch sử Phật Giáo Ấn Độ có hai Ngài Thế Thân. Một vị là Tổ Thiền Tông thứ 21 được Phó Pháp Tạng, người ở thành La Duyệt, họ Tỳ Xá Khư, cha tên là Quang Cái, mẹ tên là Nghiêm Nhất. Vị thứ hai cũng còn gọi là Thiện Thân (Vasubardhu) em ruột Ngài Vô Trước. Ở đây muốn đề cập đến Ngài Thế Thân nầy. Vì Ngài có liên quan đến Tịnh Độ.

“Ngài là Đại Luận Sư người Ấn Độ, sống vào thế kỷ thứ 4, 5; người ở thành Phú Lâu Sa Phú La, nước Kiền Đà La, Bắc Ấn Độ, là con thứ 2 của Quốc Sư Bà La Môn Kiều Thi Ca. Mới đầu, Sư cùng với anh là Vô Trước (Asanga) xuất gia theo Tát Bà Đa Bộ (Hữu Bộ). Sau, Ngài Vô Trước chuyển sang Đại Thừa; còn Sư thì theo Kinh Lượng Bộ, lập chí cải thiện giáo nghĩa Hữu Bộ; nên Sư đến nước Ca Thấp Di La nghiên cứu luận Đại Tỳ Bà Sa. Bốn năm sau, Sư trở về nước, giảng dạy luận Đại Tỳ Bà Sa cho Đại Chúng; đồng thời, soạn luận A Tỳ Đạt Ma Câu Xá. Ban đầu, Sư công kích Phật Giáo Đại Thừa, cho rằng Đại Thừa chẳng phải là do Phật nói. Sau, được Ngài Vô Trước mở bày, Sư mới ngộ lý Đại Thừa và chuyển sang tin thờ và hoằng dương giáo pháp Đại Thừa. Sư soạn rất nhiều luận và sách chú thích, đặt nền tảng vững chắc cho Phái Du Già trong Phật Giáo Đại Thừa.

 

Tác phẩm quan trọng của Sư gồm hơn 40 loại như:

- Luận Câu Xá, 30 quyển

- Nhiếp Đại Thừa luận thích, 15 quyển

- Thập Địa kinh luận, 12 quyển

- Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa kinh luận

- Quảng Bách luận

- Bồ Đề Tâm luận

- Tam Thập Duy Thức luận tụng

- Luận Đại Thừa bách pháp minh môn

- Vô Lượng Thọ kinh Ưu Bà Đề Xá.

Theo sự khảo chứng của các học giả hiện đại thì Thế Thân tác giả luận Câu XáThế Thân em Ngài Vô Trước là 2 người cùng tên. Ngài Thế Thân tác giả luận Câu XáLuận Sư (Thế Thân mới) của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ; còn Ngài Thế Thân em Ngài Vô TrướcLuận Sư (Thế Thân cũ) của Du Già Hành phái. Nguyên nhân chính khiến xưa nay xem 2 người là một là vì bộ “Bà Tẩu Bàn Đậu Pháp Sư truyện” do Ngài Chân Đế dịch; sách nầy cho rằng hai người là một; phần chủ yếu ở giữa sách là tư liệu về Ngài Thế Thân mới, còn phần trước và sau là tư liệu về Ngài Thế Thân cũ.

Thế Thân cũ là con của Quốc Sư Kiều Thi Ca, em Ngài Vô Trước ở thành Phú Lâu Sa Phú La, sau khi xuất gia học giáo nghĩa của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, về sau, chuyển sang học giáo pháp Đại Thừa; niên đại của Sư khoảng từ 320-380.

Còn Thế Thân mới thì thờ Ngài Phật Đà Mật Đa La làm Thầy, thuộc Hữu Bộ; nhưng lại có khuynh hướng Kinh Lượng Bộ. Theo truyền thuyết, Sư rất được vua Chính Cần Nhật và Thái Tử Bà La Dật Để Dã (Baladitya) kính trọng. Sư sống và hoạt động vào khoảng 400-480. Luận Câu Xá, luận Thất Thập chân thực … đều là những tác phẩm của Ngài Thế Thân mới nầy. (Trích Phật Quang Đại Tự Điển trang 5664-5665). (Xem Đại Đường Tây Vức Ký quyển 4; Lịch Đại Tam Bảo ký quyển 9; Đại Từ Ân tự tam tạng Pháp sư truyện quyển 2: Khai Nguyên Thích Giáo lục quyển 7; Thích Ca phương chí quyển thượng; On the Data of the Buddhist Master of Law Vasubandha, Series Orientale Roma III 1951, by E. Frauwallner).

Ngài Long Thọ, đệ nhất Tổ của Tịnh Độ Tông Ấn Độ, cũng là đệ nhất Tổ Tịnh Độ Tông của Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam. Ngài sinh khoảng năm 256-276 sau Tây lịch. Nghĩa là vào giữa thế kỷ thứ 3, sau khi Đức Phật nhập diệt độ 800 năm. Còn Ngài Thế Thân tác giả Vãng Sanh luận hay còn gọi là Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá thì sinh vào năm 320-380 là hữu lý. Vì Ngài đã tham học luận Đại Tỳ Bà Sa của Ngài Long Thọ trước đó. Còn Ngài Thế Thânluận chủ của Luận Câu Xá sanh vào năm 400-480 chắc chắn không phải là Ngài Thế Thân em ruột của Ngài Vô Trước.

Hai anh em cùng đi xuất gia, Ngài Vô Trước xiển dương giáo lý Đại Thừa; còn Ngài Thế Thân thì phỉ báng Đại Thừa. Sau khi Ngài Vô Trước chỉ bảo, khuyến tấn thì Ngài Thế Thân cũng dùng miệng lưỡi ấy để tuyên dương giáo pháp Đại Thừa. Sau khi Ngài viên tịch, tương truyền rằng chiếc lưỡi ấy vẫn còn nguyên vẹn sau khi hỏa táng. Điều ấy để chứng minh cho thấy rằng: Việc Ngài tuyên dương giáo pháp của Đức Như Lai là chơn thật.

Như trên chúng ta thấy, Ngài Thế Thân em của Ngài Vô Trước trứ tác hơn 40 loại; mỗi loại như thế gồm nhiều quyển. Quả thật là một bộ óc vĩ đại của một vị Tổ Sư. Ở đây chỉ riêng muốn tìm hiểu những gì liên quan về Tịnh Độ. Do vậy chúng tathể tham cứu về “Vãng Sanh luận” hay “Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá” do Ngài trước tác.

“Tiếng Phạn gọi là Suhhavati-Vyahopadesa. Gọi đủ là Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá nguyện sinh kệ. Cũng còn gọi là: Tịnh Độ Luận, Vãng Sinh Tịnh Độ luận, Vô Lượng Thọ Kinh luận, Vô Lượng Thọ Ưu Bà Đề Xá kinh luận, Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá, Nguyện Sinh kệ.

Luận, 1 quyển, do Ngài Thế Thân (Vasubandha) soạn, do Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch vào đời Bắc Ngụy, được thu vào Đại Chánh Tân Tu Tạng tập 26.

Nội dung luận nầy nương theo kinh Vô Lượng Thọ mà soạn các bài kệ phát nguyện vãng sanh, khen ngợi sự trang nghiêm của Tịnh Độ Cực Lạc, nói rõ về 5 niệm môn: Tu tập lễ bái, khen ngợi, phát nguyện, quán xét, hồi hướng… đồng thời khuyên mọi người sanh về Tây Phương. Nghĩa là tu tập 5 niệm môn có thể, theo thứ tự, thành tựu được 5 thứ công đức; Cận môn, Đại Hội chúng môn, Trạch môn, Ốc môn và Viên Lâm Du Hý Địa Môn. Bốn thứ công đức trước thuộc về Nhập công đức, có khả năng vào thế giới Liên Hoa tạng, tự thọ hưởng niềm vui pháp; còn Viên Lâm Du Hý Địa Môn sau cùng thì thuộc về Xuất công đức, tức trở lại sanh tử phiền não, dùng thần thông du hý giáo hóa, cứ như thế làm lợi mình, lợi người sẽ mau chóng thành tựu Bồ Đề. Đây là bộ luận duy nhất do người Ấn Độ soạn, đặc biệt được Tông Tịnh Độ rất xem trọng, cùng với 3 bộ kinh: Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng ThọKinh A Di Đà; được gọi chung là Tam kinh nhất luận (Ba kinh một luận), là những kinh luận y cứ chính yếu của Tông Tịnh Độ. Ý nghĩa được trình bày trong luận nầy rất sâu xa vi diệu, đại khái phù hợp với thuyết Thập bát viên tịch trong luận Nhiếp Đại Thừa của Ngài Vô Trước. Về sách chú thích luận nầy thì có “Vãng sanh luận chú” 2 quyển do Ngài Đàm Loan soạn vào đầu đời Bắc Ngụy. Trong Tạng Thánh hộ ở Viện Chính Thương tại Nhật Bản có cất giữ bản chép tay xưa của luận nầy; nhưng hơi khác với bản hiện hành”.

(Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 7055-7056). (Xem lịch đại Tam Bảo ký quyển 9. Đại Đường nội điển lục quyển 4; khai nguyên Thích giáo lục quyển 6).

Pháp môn tu tập của Ngài Thế Thân dạy cho người đời sau trong “Vãng sanh luận” nầy căn cứ theo kinh Vô Lượng Thọ để hành giả trải qua 5 niệm môn là: Tu tập lễ bái, khen ngợi, phát nguyện, quán xét và hồi hướng.

Lễ bái là một pháp môn rất quan trọng tự ngàn xưa. Người Tăng, kẻ tục dùng 5 vóc của mình gồm: Trán, 2 cùi chỏ của tay, 2 đầu gối của chân và trán cùng một lúc thành kính gieo xuống đất nhiều lần như thế để biểu tỏ thái độ cung kính; hoặc giả sám hối tội lỗi trong nhiều đời nhiều kiếp mà hành giả đã gây ra dầu tuy cố ý hay vô tình. Ở đây mỗi câu Phật hiệu “Nam Mô A Da Đà Phật khi được xướng lên, hành giả lại gieo 5 vóc xuống đảnh lễ Ngài một lạy; công đức thật là bất khả tư nghì. Do vậy chư vị Tổ Trung Hoa mới dạy rằng: Lễ Phật giả kỉnh Phật chi đức (lạy Phật nghĩa là cung kính cái đức của Phật). Đức Phật A Di Đà và chư vị Bồ Tát có một công đức, một năng lực cao cả, vô lượng vô biên; nên chúng ta lễ bái là lạy cái đức cao cả sâu dày ấy.

Kế tiếp là khen ngợi hay tán thán, là hình thức cung kính qua lời nói hay cử chỉ. Ví dụ như dưới đây là một bài kệ khen ngợi Phật A Di Đà của chư Tổ Trung Hoa:

Phật A Di Đà thân kim sắc

Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm

Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào

Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc

Trong hào quang hóa vô số Phật

Vô số Bồ Tát hiện ở trong

Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh

Chín phẩm sen vàng lên giải thoát

Quy mạng lễ A Di Đà Phật

Ở phương Tây thế giới an lành

Nay con xin phát nguyện vãng sanh

Cúi mong Đức Từ Bi tiếp độ

 

Dĩ nhiên là chẳng phải chỉ có một bài nầy, mà còn nhiều bài kệ khác nữa, nhằm diễn tả hạnh nguyện và những công đức của Đức Phật A Di Đà. Tán thán, ngợi khen cũng sẽ tạo ra những công đức bất khả tư nghì, không diễn tả hết bằng lời được.

Tiếp theophát nguyện. Sự phát nguyện ấy tự tâm của hành giả tu theo pháp môn Tịnh Độ. Ai tu theo pháp môn nầy cũng phát nguyện là sau khi lâm chung muốn sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, nương theo tha lực của Đức Phật A Di Đà để được vãng sanh về thế giới: Phàm Thánh đồng cư Tịnh Độ ấy.

Có nhiều người không muốn sanh về Cực Lạc thì nguyện sanh về Tịnh Độ Đông Phương hay Tịnh Độ Nam Phương; hoặc giả có nhiều người muốn thành tựu nhân gian Tịnh Độ thì mãi ở nơi cõi Ta Bà nầy. Không nhất thiết phải về Tịnh Độ Tây Phương nếu hành giả ấy chẳng muốn phát nguyện.

Phần tiếp là quán xét. Phần nầy hành giả vừa niệm Phật, vừa quán tưởng thế giới Tây Phương Cực Lạc giống như trong kinh A Di Đà, mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã diễn tả. Niệm Phật không phải chỉ để niệm không, mà còn tập trung tư tưởng lại để quán sát nữa. Tưởng nầy cũng gần giống như các cách quán tưởng trong kinh Quán Vô Lượng Thọ. Mục đích để cho tâm hành giả không bị chi phối, giao động, mà chỉ một lòng nhớ nghĩ đến Đức Phật A Di Đàcảnh giới Tây Phương mà thôi.

Hồi hướng phát nguyện là phần không thiếu của bất cứ một pháp môn tu nào. Hồi hướng có nghĩa là đem hết sức mình có được, muốn phổ cập, trang trải đến tất cả pháp giới chúng sanhcầu nguyện cho các loài hữu tình cũng như vô tình, sớm trọn thành Phật đạo.

Nếu tu tập được 5 niệm môn nầy sẽ sinh ra 5 loại công đức mà theo Ngài Thế Thân thì cho rằng: Bốn loại công đức trước thuộc về nhập Hoa Tạng. Có nghĩa là tướng ấy tịch diệt, chơn như. Ai sanh về đó, ở mãi nơi cảnh giới Cực Lạc để thọ hưởng sự an vui nơi Niết Bàn. Còn phần sau cùng, công đức ấy sẽ trở lại Ta Bà để hóa độ chúng sanh. Phần nầy chúng ta có thể so sánh với tướng hoàn lại thế giới phiền não nầy của một hành giả đã vãng sanh, tiếp tục thực hiện những hạnh nguyện cao cả của mình ở thế giới Ta Bà nầy.

Bộ luận nầy y cứ theo kinh Vô Lượng Thọ. Do vậy chúng ta không còn ngần ngại gì nữa để chấp nhận Ngài Thế Thân một cách tự nhiên là Đệ Nhị Tổ Tịnh Độ Tông của Việt Nam, như người Nhật họ đã chấp nhận cho Tịnh Độ Tông của họ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một Đức Phật lịch sử. Ngài đã sáng lập ra nền đạo; còn các vị Tổ Sư cứ thế mà Tổ Tổ tương Truyền để nối tiếp con đường của các bậc Tổ đức đã đi qua.

Xưa nay đọc sách vở rất nhiều, chúng tôi thấy người Hoa, người Nhật, người Tây Tạng lập Tông rất rõ ràng. Riêng người Việt Nam chúng ta khi hỏi về Tông Phái thì hay mù mờ, không trả lời rõ ràng được. Ngay như Thiền Tông, tuy không lập thành văn tự; nhưng có cách truyền thừa thật rõ nét, mà riêng chỉ với Trung Hoa và Nhật Bản; còn Việt Nam chúng ta thì không phải vậy. Có lẽ vì quê hương chúng ta bị chiến chinh, loạn lạc nên chẳng ai muốn lưu giữ dấu tích làm gì, nhất là những vị Thiền Sư. Do vậy mà đàn hậu học về sau khi nghiên cứu đến những thế hệ trước; thật là vô cùng khốn đốn. Để tránh tình trạng không biết vị Tổ ấy sinh năm nào, viên tịch năm nào và vị ấy thuộc về phái gì v.v… khi còn sống, chính quý vị ấy nên ghi lại lai lịch của mình thật rõ ràng thì đời sau không thể làm khác đi được.

Nhiều người Việt Nam tu theo pháp môn Tịnh Độ; nhưng khi hỏi 3 kinh căn bản của pháp môn nầy cũng còn lớ ngớ, huống gì là tư tưởng và cách truyền thừa của các vị Tổ đức của Tịnh Độ Tông. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Con nhà Tông, không giống lông cũng giống cánh”; nhưng ta thuộc về Tông nào đây? Tổ của chúng ta là ai ? v.v… Nếu ta đã hiểu rõ rồi thì con đường tu niệm, truyền thừa của chúng ta sẽ chắc chắn rõ ràng hơn. Từ đó chúng ta an tâm đi vào nề nếp để tu họchành trì.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7544)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7602)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6135)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9998)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7106)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7336)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6999)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9372)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5857)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7114)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6536)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6118)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7179)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14406)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20483)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9480)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7896)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8202)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7462)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9391)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7475)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7496)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7686)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9495)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8801)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7403)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7986)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7045)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7692)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9882)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8295)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8848)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7697)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8852)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8676)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8013)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9024)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9439)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8765)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8903)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7237)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9199)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8618)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7905)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9655)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10209)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8794)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8407)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7658)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9360)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7501)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15380)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7331)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8518)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12281)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7337)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11532)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8328)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8052)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7927)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant